Thứ Hai, 30 tháng 9, 2013

Nhà cầm quyền rối trí về Lê Quốc Quân?

Lý Thái Hùng

Chính quyền đã hoãn phiên xử LS Quân và kéo dài thời gian trì hoãn tới gần 3 tháng

Trong mấy ngày vừa qua, công an và an ninh của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam tại Hà Nội đã tạo ra một số diễn biến “náo động” được cho là khá điên rồ.

Họ tưởng rằng đưa một nhóm côn đồ đến bắt giữ những người tụ họp tại nhà Blogger Nguyễn Tường Thụy, đánh đập ông Lê Quốc Quyết, em ruột luật sư bất đồng chính kiến Lê Quốc Quân và có những hành vi bạo lực đối hai mẹ con nữ sinh viên Nguyễn Phương Uyên tại phi trường Nội Bài… là chứng tỏ ’bắp thịt’ hay sức mạnh, uy thế của chế độ.

Nhưng các hành vi bị phê phán là ’bạo lực’ và ’côn đồ’ nói trên có lẽ chỉ cho thấy sự bực tức lẫn rối trí của chế độ khi không thể phát hiện và ngăn chặn việc các nhà hoạt động trên không gian mạng Internet đã giúp đỡ hai mẹ con sinh viên Phương Uyên ra thăm Hà Nội trong lúc cô còn chịu cái gọi là “quản chế”.

Nếu nhìn trên mặt thuần lý, bộ máy an ninh của chính quyền cộng sản Việt Nam đã đang tiếp tục thua dũng khí của sinh viên Phương Uyên không chỉ ở trong nhà tù Long An mà ngay trên đường phố Hà Nội. Rối trí là phải.

Những diễn tiến nói trên chẳng khác gì vụ an ninh và công an Hà Nội chặn bắt Luật sư Lê Quốc Quân vào lúc 8 giờ sáng ngày 27/12/2012, trên đường ông đưa con đi học với tội danh mà họ cáo buộc ông là… trốn thuế. Chỉ có những “đỉnh cao trí tuệ” bị rối trí mới nghĩ ra tội danh kỳ lạ đối với với những người yêu nước kỳ quái như vậy.

Sau mấy tháng giam giữ, chính quyền thông báo là sẽ đưa Luật sư Quân ra tòa xét xử về tội trốn thuế vào ngày 9/7/2013. Nhưng chỉ vài giờ trước khi phiên xử ông Lê Quốc Quân dự kiến diễn ra, chính quyền cộng sản tức tốc loan báo hoãn phiên tòa vì Thẩm phán “bị cảm đột xuất phải đưa đi cấp cứu”.
Sau này người ta mới rõ lý do công an đã buộc bà thẩm phán Lê Thị Hợp phải “đột cảm” là để tránh những rắc rối cho chuyến viếng thăm Hoa Kỳ của ông Trương Tấn Sang được Hà Nội quyết định ngay vào lúc đó. Chuyến viếng thăm Hoa Kỳ của ông Trương Tấn Sang vào cuối tháng 7 vừa qua khá quan trọng.

Nó không chỉ là dấu ấn biểu hiện sự thay đổi chính sách ngoại giao của cộng sản Việt Nam đối với Hoa Kỳ qua bài phát biểu tại Diễn Đàn Shangri-La, Singapore hôm 31/5 của ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng mà còn là bước khởi đầu mở lại sự thăm viếng ở cấp cao giữa hai nước vốn bị trì hoãn gần 5 năm, từ sau chuyến thăm Hoa Kỳ chính thức của ông Dũng vào năm 2008.

Ngay sau khi ông Trương Tấn Sang về nước sau cuộc hội kiến với ông Obama, công an và tòa án của chính quyền đã “thả” nữ sinh Phương Uyên.

’Ba việc gây rối trí’

Từ lúc Phương Uyên ra khỏi nhà tù, có ba diễn biến thời sự đã làm cho công an một lần nữa rối trí.
Thứ nhất là sự xuất hiện của nhóm bloggers vận động bỏ Điều 258 bộ Luật hình sự sau khi chính quyền bắt giữ 3 bloggers là các vị Trương Duy Nhất, Phạm Viết Đào, Đinh Nhật Uy dựa theo điều luật này.

Nhóm Bloggers 258 đã tạo được một thành quả quốc tế vận rất lớn khi các anh chị em này thực hiện các cuộc tiếp xúc với hàng loạt sứ quán Hoa Kỳ, Úc, Đức, Thụy Sĩ, Na Uy kể cả sang tận Thái Lan gặp đại diện Liên Hiệp Quốc… trong sự khó chịu của công an, an ninh.

Thứ hai là ông Lê Hiếu Đằng, một cựu cán bộ và một đảng viên lâu năm đã lên tiếng kêu gọi đảng viên đảng cộng sản Việt Nam nên bỏ đảng vì lãnh đạo đã phản bội, để cùng nhau lập ra một đảng mới, hoạt động với tư thế đối lập đối trọng với đảng Cộng sản Việt Nam.

Ông Lê Hiếu Đằng là đảng viên cộng sản Việt Nam đương chức đầu tiên trong suốt lịch sử đảng này dám công khai kêu gọi các đảng viên khác hãy rời bỏ cái tập thể ’đang làm hại’ đất nước.

Thứ ba là 130 trí thức, và con số này còn đang gia tăng, đã phổ biến một Tuyên bố thành lập Diễn Đàn Xã Hội Dân Sự mà mục tiêu là mở ra một diễn đàn trao đổi và tranh luận về nhu cầu cải cách thể chế chính trị, chuyển từ toàn trị sang dân chủ.

Việt Nam hoãn xử ông Lê Quốc Quân trước khi Chủ tịch Sang thăm Nhà Trắng

Các trí thức đã yêu cầu quốc hội của chính quyền cộng sản Việt Nam dừng việc thông qua bản hiến pháp sửa đổi hiện nay và kêu gọi hãy có những thay đổi mang tính nền tảng hơn. Vì nếu cứ tiếp tục duy trì thể chế toàn trị như hiện nay, tình trạng đất nước sẽ dẫn tới những hệ quả khó lường, đặc biệt khi người dân quá thất vọng và bất bình.

Công an, an ninh cũng như chính quyền thực sự đang rối trí vì khó có thể dựa trên những điều như 79 (âm mưu lật đổ chế độ), 84 (khủng bố), 88 (tuyên truyền chống phá nhà nước), hay 258 (lợi dụng quyền tự do)… để trấn áp những người đang tạo ra các diễn biến thời sự nói trên.

Trong bối cảnh đó, nhà cầm quyền lại quyết định mang Luật sư Lê Quốc Quân ra xét xử một lần nữa về tội trốn thuế vào lúc 8 giờ sáng ngày 2/10/2013 như thông báo chính thức, và cho biết vụ án được xét xử công khai với thẩm phán chủ tọa phiên toà không ai khác hơn là bà Lê Thị Hợp vốn bị “đột cảm” phải hoãn phiên xử cách nay 3 tháng.

’Hai điều phải trả lời’

Có hai vấn đề mà nhà cầm quyền Việt Nam sẽ phải giải quyết hay nói đúng hơn là trả lời trước công luận về vụ xử án này.

Thứ nhất, tại sao họ không dám xét xử Luật sư Lê Quốc Quân về tội danh chính trị liên quan đến các hoạt động yêu nước của ông mà lại phải sử dụng tội danh trốn thuế?

Phải chăng là vì nếu để dùng các con số từ hồ sơ vụ án, mà các luật sư và kế toán viên độc lập đã có thể chứng minh và loan tải trên mạng, thì công luận sẽ thấy ngay rằng Luật sư Quân đã đóng "dư thuế" chứ không phải là thiếu thuế hay trốn thuế như bị cáo buộc. Tòa án có dám cho các luật sư và kế toán viên này đối chất tại phiên tòa hay không?

Thứ hai, tại sao lại phải trì hoãn vụ xét xử Luật sư Quân và kéo dài tới gần 3 tháng sau, trong khi bà Lê Thị Hợp chỉ bị ’cúm’? Cả hệ thống tòa án Hà Nội chỉ có duy nhất một chánh án hay sao? Hay chẳng cán bộ chánh án nào muốn tên mình bị cột vào một vụ án mà cả thế giới sẽ lên án và thậm chí ’phỉ nhổ’ trong những ngày tháng tới?

Báo Pháp vinh danh LS Lê Quốc Quân trong 50 người thay đổi thế giới

Mặt khác, tư thế của Luật sư Quân đã đổi khác kể từ ngày anh bị bắt. Trong số tiếng nói lên tiếng cho ông trên khắp thế giới, gần đây nhất Lê Quốc Quân được tờ báo PhápLe Nouvel Obsevateur đánh giá là một trong 50 người đang làm thay đổi cục diện thế giới.

Số báo này cũng bất ngờ xuất hiện đúng vào tuần lễ sinh nhật của ông Quân, ngày 13/9. Đồng thời Luật sư Quân cũng là người mà Bộ ngoại giao Hoa Kỳ, tổ chức NED và nhiều tổ chức phi chính phủ khác quan tâm hàng đầu.

Một số chính giới tin rằng một bản án bất công tại phiên tòa ngày 2/10 sắp tới sẽ làm phương hại mối quan hệ Washington - Hà Nội mà ông Trương Tấn Sang gây dựng trong chuyến viếng thăm vào cuối tháng Bảy vừa qua.

Xem ra, dù với đầy đủ thông tin, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam vẫn không thoát nổi và đang lập lại đoạn đường chót của hầu hết các chế độ độc tài vừa sụp đổ trong mấy thập niên qua. Thay vì giải thoát chính mình bằng cách trả quyền điều hành đất nước lại cho dân tộc, họ chỉ biết tiếp tục gia tăng bạo lực, tiếp tục tin rằng người dân sẽ bị đánh quị và trở về tư thế quì gối cũ.

Nhưng Hà Nội đang rất kinh ngạc và bối rối khi thấy các đòn bạo hành của họ chỉ làm tăng sự phẫn nộ của người dân và ngày càng làm nhiều người đứng lên hơn nữa.

Thế là họ càng ra sức bạo hành, càng rối trí, và càng đẩy chính họ vào chân tường.

Nguồn: BBC

Ban Công Lý và Hòa Bình Giáo phận Vinh lên tiếng bênh vực công lý trong vụ án luật sư Lê Quốc Quân

GPVO

Lúc 8 giờ ngày 02/10/2013, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội sẽ đưa vụ án luật sư Lê Quốc Quân ra xét xử tại số 43, Hai Bà Trưng, Tp Hà Nội. Chúng tôi đăng lại Văn thư của Ban Công Lý & Hòa Bình giáo phận Vinh lên tiếng bênh vực công lý và bảo vệ gia đình luật sư Quân vốn đang được công luận đặc biệt quan tâm, bênh vực.

"... Cùng với công luận Việt Nam và quốc tế, chúng tôi khẩn thiết đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội ra quyết định đình chỉ vụ án, trả tự do vô điều kiện cho luật sư Lê Quốc Quân và những người liên quan, đồng thời buộc những người có trách nhiệm bồi thường xứng hợp cho họ và gia đình. Nếu chúng ta tôn trọng Sự Thật thì đây là chọn lựa duy nhất."

Giáo Phận Vinh
Ban Công Lý Và Hòa Bình
Số: 07/13CL-HB Xã Đoài, ngày 23 tháng 7 năm 2013
V/v: Bênh vực công lý cho
luật sư Lê Quốc Quân trong vụ án
được coi là trốn thuế.

Sau khi nghiên cứu đơn kêu cứu và toàn bộ hồ sơ vụ án trốn thuế mà luật sư Lê Quốc Quân, giám đốc công ty TNHH giải pháp Việt Nam, bị truy tố, đồng thuận với công luận Việt Nam và quốc tế, Ban Công Lý và Hòa Bình giáo phận Vinh khẩn thiết bênh vực công lý để bảo vệ quyền căn bản của công dân.

Lê Quốc Quân được mọi người biết đến là một luật sư trẻ, một blogger năng động, một nhà tranh đấu không mệt mỏi cho nền dân chủ Việt Nam. Không ai phủ nhận ông có nhiệt huyết giúp đỡ người nghèo, khao khát đóng góp cho công bằng xã hội, tôn trọng quyền tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do lập hội, cổ xúy đa nguyên – đa đảng để giúp đất nước thoát ra khỏi tình trạng trì trệ và tham nhũng, chấn hưng nền giáo dục đang bị khủng hoảng, phản đối xâm lược của Trung Quốc để bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ đất liền, không phận và biển đảo của quốc gia. Đây được coi là nguyên nhân làm cho luật sư Lê Quốc Quân luôn bị chính quyền Việt Nam theo dõi và tìm cách hãm hại.

Từ việc sách nhiễu, cấm cách, bắt bớ, giam giữ dài hạn nhiều lần mà không có căn cứ pháp lý của chính quyền Việt Nam kể từ khi luật sư Lê Quốc Quân trở về nước sau khi tham dự khóa học về “xây dựng xã hội dân sự” do tổ chức Quốc gia Hỗ trợ Dân chủ (National Endowment for Democracy) ở Mỹ cấp học bổng, việc công an Hà Nội, sau một loạt động thái bất công vốn đã từng hành xử với những nhà tranh đấu cho nhân quyền và dân chủ tại Việt Nam, bắt tạm giam luật sư Lê Quốc Quân ngày 27/12/2012 với cáo buộc tội “trốn thuế” trong tư cách là giám đốc công ty TNHH giải pháp Việt Nam, đã làm cho công luận lo ngại về nội dung và bản chất của vụ án. Đâu là sự thật?

Vượt quá những nguyên tắc tố tụng của một vụ án kinh tế, sau gần bảy tháng tìm cách khép án, tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử vào ngày 9/7/2013. Tuy nhiên, liền trước ngày xét xử, cơ quan này lại đột xuất thông báo hoãn phiên tòa chỉ vì lý do thẩm phán chủ tọa phiên tòa bị cảm cúm.

Từ những uẩn khúc lớn đó, chúng tôi đã nghiêm túc nghiên cứu vụ án và phát hiện những nội dung quan trọng dẫn đến việc đồng thuận với công luận rằng: vụ án “trốn thuế” theo điều 161 Bộ luật hình sự Việt Nam mà chính quyền khởi tố và bắt tạm giam luật sư Lê Quốc Quân, giám đốc công ty TNHH giải pháp Việt Nam, chỉ là kịch bản được dàn dựng để che đậy âm mưu chính trị chống lại một nhà tranh đấu ôn hòa cho nhân quyền và dân chủ, làm lung lạc tinh thần dân tộc của thế hệ trẻ.

Bằng chứng thứ nhất, Việt Nam đã tìm mọi cách bắt luật sư Lê Quốc Quân bỏ tù không cần tội danh và chẳng cần luật pháp: lần 1: bắt 100 ngày, không có bằng chứng rồi thả tự do trước áp lực của công luận; lần 2: bắt giam 11 ngày vì cho rằng luật sư Lê Quốc Quân có hành vi gây rối, rồi cũng không có tội danh nên thả; lần 3: bắt và cố tình đưa luật sư Lê Quốc Quân vào trại cải tạo không giam giữ 2 năm theo kiểu vụ án đối với chị Bùi Thị Minh Hằng, nhưng vì Quốc Hội bãi bỏ luật cải tạo không xét xử nên chính quyền đã ra quyết định giáo dục tại địa phương. Cuối cùng, không ngoài tiến trình đó, nhà cầm quyền bắt luật sư Lê Quốc Quân vì tội trốn thuế là điều dễ hiểu.

Bằng chứng thứ hai, hệ thống tư pháp Việt Nam hoàn toàn không có cơ sở khởi tố luật sư Lê Quốc Quân về tội trốn thuế, vì theo luật pháp Việt Nam hiện hành, thì bắt buộc cơ quan Thuế phải làm việc trước. Trong vụ án này, chính quyền đã làm ngược quy trình đó, công an Hà Nội ép cơ quan thuế làm và trong khi cơ quan thuế chưa làm thì công an đã bắt người và tịch thu hết mọi hồ sơ giấy tờ của công ty, kể cả con dấu, điều mà luật pháp không cho phép. Đặc biệt, theo các quy định về khai nộp thuế hiện hành tại Việt Nam dựa trên Thông tư số 60/2007/TT-BTC ngày 14/6/2007 của Bộ tài chính hướng dẫn thi hành một số điều của luật quản lý thuế, Thông tư số 130/2008/TT-BTC ngày 26/12/2008 của Bộ tài chính hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế doanh nghiệp và hướng dẫn thi hành Nghị định số 124/2008/NĐ-CP ngày 11/11/2008 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật thuế doanh nghiệp và Nghị định số 98/2007/NĐ-CP ngày 7/6/2007 về việc nộp thuế doanh nghiệp, thì những hành vi vi phạm thuế của luật sư Lê Quốc Quân nếu có thì cũng chỉ bị xử phạt hành chính và buộc chi trả toàn bộ thuế cũ và phát sinh.

Bằng chứng thứ ba, trong lịch sử tư pháp Việt Nam, chưa một ai bị bắt khẩn cấp vì tội trốn thuế. Vậy mà luật sư Lê Quốc Quân, anh Lê Đình Quản và chị Nguyễn Thị Oanh lại bị bắt khẩn cấp, với hàng trăm công an an ninh. Riêng chị Oanh lại bị bắt vào ban đêm trong hoàn cảnh đang mang thai. Sau đó, chị được cho tại ngoại nhưng lại bị sẩy thai liền sau đó và bị suy giảm nặng về sức khỏe thai phụ. Đây chính là hậu quả của hành vi vi phạm nghiêm trọng khoản 2 điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003: “Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, bệnh nặng mà có nơi cư trú rõ ràng thì không được tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.” Theo các luật sư tham gia vụ án này thì việc bắt luật sư Lê Quốc Quân và những người khác trong vụ án đều không tuân thủ quy định tại Điều 80 Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam, và nhất là đã có nhiều sai phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng hình sự.

Bằng chứng thứ tư, việc điều động công an an ninh thay vì công an kinh tế để điều tra hoàn tất vụ án là bằng chứng cụ thể quan trọng chứng minh tính chất chính trị của vụ án (xem Quyết định số 3449/QĐ-CAHN-PX13 ngày 18/10/2012 của giám đốc công an thành phố Hà Nội về việc điều động cán bộ). Nhất là đã có bằng chứng làm giả hồ sơ để hoàn tất vụ án vì trong các bút lục hồ sơ có những văn bản trước căn cứ văn bản sau xét về mặt thời hạn. Đây là điều lý giải tại sao cơ quan tố tụng từ chối việc luật sư tham gia vụ án ngay từ đầu theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự.
Bằng chứng thứ năm, kể từ ngày khởi tố vụ án và bắt tạm giam các bị can, cho đến nay thời hạn vụ án đã vượt quá các quy định tố tụng nhưng vụ việc vẫn chưa được đưa ra xét xử. Trong khi chị Nguyễn Thị Oanh đã mất đứa con đầu lòng của mình sau khi bị bắt và bị tạm giữ, luật sư Lê Quốc Quân và anh Lê Đình Quản vẫn bị giam trong điều kiện hết sức thiếu thốn, khắc nghiệt và chưa được gặp người thân như pháp luật cho phép. Hơn nữa, theo luật tố tụng, với tội danh trốn thuế, thời hạn từ khi tòa án thụ lý hồ sơ vụ án cho đến ngày xét xử là không quá 45 ngày, nhưng thực tế, luật sư Lê Quốc Quân và anh Lê Đình Quản đã tiếp tục bị giam không xét xử hơn 3 tháng.

Bằng chứng thứ sáu, gia đình và người thân của luật sư Lê Quốc Quân, những người hoàn toàn không liên quan đến vụ án, vẫn thường xuyên bị sách nhiễu, gây áp lực vô lý và bị đối xử rất bất công trong cuộc sống. Công ty TNHH giải pháp Việt Nam không thể hoạt động do bị trịch thu trái phép con dấu và các phương tiện cần thiết. Đặc biệt, trong thời gian Luật sư Lê Quốc Quân bị bắt giữ, không chỉ trụ sở công ty mà cả nhà riêng của gia đình cũng ít nhất 3 lần bị khám xét tùy tiện.

Với tất cả những nội dung trên, cùng với công luận Việt Nam và quốc tế, chúng tôi khẩn thiết đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội ra quyết định đình chỉ vụ án, trả tự do vô điều kiện cho luật sư Lê Quốc Quân và những người liên quan, đồng thời buộc những người có trách nhiệm bồi thường xứng hợp cho họ và gia đình. Nếu chúng ta tôn trọng Sự Thật thì đây là chọn lựa duy nhất.
Trân trọng.

BAN CÔNG LÝ VÀ HÒA BÌNH
GIÁO PHẬN VINH

 

Nguồn: GPVO

Nền kinh tế ’chưa phồn vinh mà giả tạo’

Bình Thuận

Hiện nay, cả xã hội đang gánh nặng nỗi lo về một nền kinh tế đang tụt hậu - như thừa nhận của người đứng đầu Ban Kinh tế Trung ương tại một hội thảo mới đây. Sau hai bài viết liên quan về chủ đề này đăng trên VietNamNet, hàng trăm độc giả đã cảm nhận thấy "nỗi đau" mà nền kinh tế Việt Nam đang phải đối mặt.

Tôi đã đọc và đồng cảm với một comment của bạn Đinh Lê Việt trên một trang mạng: “Hệ quả là, bệnh thành tích và tham nhũng đã làm Việt Nam kém hấp dẫn trong con mắt các nhà đầu tư quốc tế, trong khi các nước cùng khu vực như Indonesia, Thái Lan... hay nền kinh tế mới mở cửa như Myanmar lại hấp dẫn hơn. Chính vì vậy mà đầu tư quốc tế vào Việt Nam càng giảm. Mặt khác, nền kinh tế Việt Nam lại phụ thuộc khá lớn vào đầu tư nước ngoài nên kéo theo cả nền kinh tế phát triển chậm lại. Lý do là vì những nguyên nhân quá cũ, năm nào cũng nói nhưng chẳng cải thiện được là bao như bệnh thành tích, tham nhũng, thủ tục hành chính lòng vòng” …

Tôi xem chương trình trên Discovery chiếu về cuộc đời của Lý Quang Diệu và Lịch sử của Singapo mới biết được rằng việc phát triển của một quốc gia không hề dễ dàng. Ông là người được cả các nhân vật lãnh đạo xuất sắc trên thế giới kính nể khi đưa một đảo quốc thuộc địa nhỏ bé, nghèo nàn trở thành một quốc gia giàu có, văn minh.

Theo suy nghĩ của tôi thì một đất nước muốn được phát triển cần rất nhiều yếu tố nhưng không thể thiếu những yếu tố chủ chốt sau:

- Một người chỉ huy thông minh, có tầm nhìn xa trông rộng, không bị bó hẹp trong những định kiến hẹp hòi, cũ kỹ, lạc hậu với thời cuộc.

- Một ban lãnh đạo được tinh gọn, có đủ tri thức, năng lực, luôn trung thực và toàn tâm toàn ý phục vụ đất nước. - Một hệ thống chính quyền luôn quan tâm đến quyền lợi của tòan thể cộng đồng và thực hiện nghiêm minh các thể chế luật pháp. Xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng, lãng phí của công.

- Một chính sách phát triển đúng đắn dựa trên cơ sở hoàn cảnh thực tế của quốc gia, dân tộc trong từng thời điểm.

- Biết dựa vào ngoại lực nhưng chủ yếu là phải phát huy được nội lực của cộng đồng và của mỗi cá nhân, lấy năng suất và hiệu quả lao động của mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp cụ thể làm chỉ số đánh giá mức độ phát triển của đất nước.

- Biêt hỗ trợ và kích thích sự nỗ lực phấn đấu của mỗi cá nhân làm giàu cho chính mình cũng chính là làm giàu cho đất nước. - Biết khơi dậy ý thức trách nhiệm của công dân và tinh thần thượng tôn pháp luật.

- Tôn trọng các ý kiến phản biện, thực hiện dân chủ hóa trong mọi mặt đời sống chính trị - xã hội.
Trong các tiêu chí ấy, liệu Việt Nam của chúng ta đã đạt được những tiêu chí nào? Tôi nghĩ là không có hoặc dù có cũng chỉ là hình thức. Vậy thì làm sao mà ta có thể phát triển được. Có thể nhận thấy những tồn tại của nước ta hiện nay như sau:

- Bộ máy lãnh đạo cồng kềnh, kém hiệu quả từ TU cho đến địa phương, không xoay xở kịp với những thay đổi rất nhanh trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội thời hiện đại.

- Đường lối chính sách chưa gắn liền với thực tế và chưa có cơ sở khoa học.

- Tệ nạn tham nhũng tràn lan từ cấp thấp cho đến cấp cao, tình trạng quan liêu, lãng phí phổ biến làm suy kiệt nguồn lực quốc gia cũng như các nguồn hỗ trợ từ bên ngoài.

- Quan chức trình độ kém cỏi, kết bè kết phái cùng với giới tài phiệt tạo ra các nhóm lợi ích từng ngành, từng địa phương đục khoét, vơ vét của công.

- Pháp luật còn nhiều thiếu sót lại không được thực hiện nghiêm chỉnh dẫn đến tình trạng phạm tội tràn lan trong xã hội như phá rừng, phá biển, côn đồ hoành hành....Ý thức trách nhiệm của các cấp chính quyền và của mỗi người dân đều bị xuống cấp.

- Tình trạng dân chủ hình thức tạo nên phản ứng ngược trong xã hội. Người dân không còn tin vào các cấp chính quyền, không còn muốn tham gia xây dựng đất nước.

- Các ý kiến phản biện dù với nhiều thiện ý cũng không được lắng nghe, thậm chí còn bị đàn áp.
Thử hỏi như vậy thì làm sao mà đất nước ta không bị ngày càng tụt hậu?

Tôi biết chuyện này, một số người cũng biết chuyện này.

Người có lương tâm thì lên tiếng phản bác.

Người có quyền lợi riêng tư thì ngậm miệng ăn tiền.

Đại đa số dân ta thì chẳng biết gì hết. Có người thấy xây cầu to, làm đường lớn còn hoan hô nữa, khen là lãnh đạo có tài xoay xở, biết lo cho dân. Họ hoàn toàn không biết rằng trong tương lai gần thì không khéo chúng ta chẳng có gì để mà làm ăn, lại còn sưu cao thuế nặng để trả nợ nước ngoài.
Rõ ràng, những công trình cầu – đường, những khu công nghiệp, phố xá mọc lên, đô thị phình to, nhà cao san sát… nhưng tiền của ai? Lấy tiền ở đâu? - Tiền đi vay. Thực lực ta có được bao nhiêu? Cho nên, đừng vơ vào để “lập thành tích chào mứng Đại hội đảng”, đừng trương lên ầm ĩ loa phường là đổi mới đang có hiệu quả, rằng đảng ta lãnh đạo giỏi, tài tình, nhà nước vẫn chủ động quản lý, quán xuyến, chính phủ điều hành giỏi…Tất cả chỉ là ‘tự vỗ ngực‘ mà thôi. Rõ ràng nền kinh tế của nước ta hiện nay không thể gọi khác hơn là đang ‘Chưa phồn vinh mà giả tạo’.

Với đám tài phiệt thì lợi nhuận là trên hết, giống như xã hội đen vậy thôi. Với tính toán siêu lợi nhuận cho các phe như vậy thì lãi suất chính thức là hình thức còn hiệu quả kinh tế chỉ là con số âm khủng khiếp. Dù đã trên cả tỉ phú, của cải bề bề, nhưng vì ‘long tham vô đáy’, ngươi ta cứ liên tục nghĩ kế để ra nhiều dự án rồi moi vào nguồn vốn ODA mà bên cho vay khá là dễ dãi, mệnh danh như sự “giúp đỡ”! Đó là vốn dài hạn, có lợi cho phía chủ nợ, nhưng lại kéo dài thời gian cam go, khốn khó cho con nợ, đời con cháu sau này phải lo mà trả nợ; và như thế tức là “bộ phận không nhỏ” đang dành ăn với con nít. Họ đưa ra những lập luận dưới vỏ bọc vì sự phát triển của đất nước, vì đổi mới, vì tái cấu trúc…Nhưng vay được vốn rồi thì vung tay tiêu xài, cho vào túi riêng của cac nhóm lợi ích, ăn chơi thoải mái. Đây không chỉ là suy thoái, mà là vi pham đạo đức nghiem trọng, là tội ác:

ODA là ÔNG DÀNH ĂN

Tham nhũng chỉ ở ngoài da
Bắt mấy con ghẻ lại là sạch thôi
Bắt xong thì lại than trời
Sao mà lại ngứa ngay nơi óc mình
Thì ra ghẻ chủ thông minh
Nó chui tận não, tim mình làm hang
Bó tay chịu trói xin hàng
Van lạy con ghẻ cho chàng ngủ yên
Chừng nào tim óc tan hoang
Thì con ghẻ sẽ hết đàng trú thân
Mong sao ngày ấy đến gần
Cho nước được lợi cho dân được nhờ

Nguồn: Blog Bùi Văn Bồng

Chủ Nhật, 29 tháng 9, 2013

Những người vợ cùng tuyến đầu

Nguyệt Quỳnh

Nhớ em vội vàng trong nắng trưa
Áo phơi trời đổ cơn mưa
(Một Mình – Thanh Tùng)

Văn chương Việt Nam rất ít những bài thơ nói về người vợ, và nếu có chỉ là những nét phác hoạ rất mờ nhạt như hai câu trong bài hát trên. Khi chồng nhớ vợ, anh không nhớ đến mái tóc, bờ môi, nhan sắc của nàng; ký ức của anh là hình bóng vội vã của vợ trong cơn mưa chợt đổ bất ngờ. Lạ thay, nắng mưa và nỗi nhớ trong hai câu trên lại làm cho chúng ta hình dung ra hình ảnh rất dịu dàng và tình yêu thắm thiết dành cho chồng của người được nhớ tới. Tựa như chúng ta chưa từng một lần được nhìn thấy bà Tú Xương, nhưng những câu thơ của thi sĩ Tú Xương về người vợ của ông lại vẽ rất tròn chân dung những hiền phụ Việt Nam. Có lẽ vì vậy mà dù ít ỏi, mỗi bài thơ, bài nhạc viết về hình ảnh người vợ lại làm nỗi xúc động của chúng ta sâu lắng hơn chăng!?

Đất nước chúng ta chiến tranh triền miên, thời đại nào cũng có những người vợ lính. Do hoàn cảnh phải đối đầu với một quốc gia khổng lồ mang tư tưởng Đại Hán, lúc nào cũng muốn nuốt chửng những quốc gia láng giềng; vì vậy sự sống còn của dân tộc luôn luôn bị thử thách. Chính những thử thách này đã nảy sinh tinh thần bất khuất, tự cường để bảo vệ tổ quốc của cha ông ta tự ngàn xưa. Đi bên cạnh cuộc đời của những con người nghĩa dũng đó là hình bóng thầm lặng của người phụ nữ. Những thân cò lặn lội, những lên thác xuống gềnh cùng chồng theo vận nước là hình ảnh đằm thắm nhưng mạnh mẽ một cách lạ lùng của người phụ nữ Việt. Ngoài những người cùng chia chung lý tưởng với người yêu như cô Giang hay cùng gánh trách nhiệm như bà Ba Đề Thám, còn biết bao nhiêu những người vợ yêu chồng, dám sống, dám hy sinh cả cuộc đời mình trong lặng lẽ như cụ bà Phan Bội Châu. Tôi nghĩ không cần ai gieo vần, họ chính là những vần thơ thầm lặng đã tạc vào tháng năm của lịch sử.

Nhưng những tấm gương hy sinh trong âm thầm đó không chỉ dừng lại trong sử sách. Tôi thấy những bóng hình này đang sống giữa chúng ta hôm nay.

Trong lúc dư luận trong và ngoài nước đang chú tâm đến người luật sư nhân bản Lê Quốc Quân cùng những gì anh đã và đang hy sinh cho người khác, ít ai biết đến bên cạnh anh còn có sự hy sinh thầm lặng của chị Nguyễn thị Thu Hiền. Đây không phải lần đầu Ls Quân bị bắt. Tháng ba năm 2007 khi từ Mỹ trở về, anh bị bắt ngay vì đã tham gia một khoá học từ học bổng của Quỹ Quốc gia Hỗ trợ Dân chủ (National Endowment for Democracy).
Sau đó, năm 2011 anh lại bị bắt cùng với bác sĩ Phạm Hồng Sơn khi đang trên đường đến hỗ trợ Ts Luật Cù Huy Hà Vũ trong ngày xử ông. Là vợ anh, chị Hiền đã phải chấp nhận sống từng ngày căng thẳng, từng đêm lo âu với chồng. Ở giữa các lần tù là những lần chồng chị bị công an đánh đập khi tham gia một buổi diễn hành đòi đất với người công giáo. Rồi vụ côn đồ chận đường đánh lén ban đêm khi anh đang trên đường về nhà. Chưa kể đến những hù dọa ban ngày, những xách nhiễu thường xuyên đối với bản thân anh và gia đình. Và ngày 2/10/2013 tới đây, chị lại chuẩn bị mọi chuyện như hàng ngày cho con cái, trước khi vội vã chạy đến tòa tranh đấu để có thể vào dự phiên xử chồng mình.

Những người vợ chân yếu tay mềm như chị Thu Hiền, chị Nga vợ nhà văn Nguyễn xuân Nghĩa, chị Dương Hà vợ Ts luật Cù Huy Hà Vũ, v.v... lấy sức mạnh ở đâu để vượt qua những thử thách lớn như thế? Tôi còn nhớ chị Nga vợ nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa đã bật khóc ngay tại phiên toà khi nghe chồng chị bị bản án sáu năm tù chỉ vì bày tỏ lòng xót xa trước phần biển đảo đã mất vào tay Trung Quốc. Anh Cù Huy Hà Vũ cũng thế. Anh Điếu Cày cũng vậy, .... Những bản án khắc nghiệt, vô lý đã phủ chụp xuống những người chồng thương yêu của các chị. Rồi tiếp sau bản án của chồng, các chị lại phải đối mặt với những sách nhiễu, những thủ thuật bao vây kinh tế của côn an, …

Để có thể đối diện với những gánh nặng và thử thách quá lớn như thế, tôi tin sức mạnh đó phải đến từ sự kính trọng và tình yêu tha thiết dành cho chồng; từ ngọn lửa yêu nước, yêu người, và niềm tin sắt đá của các anh vào tương lai tươi sáng của dân tộc. Và ngược lại, trong giai đoạn gian nan này, sự sắt son, vững vàng của các chị cũng vô cùng cần thiết cho người chồng nơi tuyến đầu tù ngục. Tôi đã nhìn thấy điều đó qua thái độ của chị Dương Hà trước sự việc Ts Cù Huy Hà Vũ tuyệt thực, và liền sau đó là thái độ của chị Tân qua trường hợp của anh Điếu Cày. Có người vợ nào không xót xa khi biết chồng mình đã tuyệt thực lâu như vậy trong hoàn cảnh khắc nghiệt của trại giam. Cái đau của các chị là cái đau của dao cắt vào da thịt từng ngày; tuy nhiên những người phụ nữ ấy đã vượt qua được nỗi sợ hãi của họ. Còn chúng ta thì sao?

Mới đây, một trí thức được mời tham dự Hội thảo về Biển Đông ở Quảng Ngãi đã tiết lộ với giáo sư Hà Văn Thịnh rằng ông cảm thấy đau đớn và nhục nhã khi biết ngư dân ta, mỗi lần đi đánh bắt xa bờ sẽ phải gặp nguy hiểm với tàu hải giám Trung Quốc. Ông bảo có lẽ muốn sống còn, muốn được an toàn ngư dân ta phải treo cờ Trung Cộng. Những khuất lấp nghe được trong buổi hội thảo ông chỉ dám chia sẻ riêng với bạn mình. Tôi tự hỏi ví như chỉ cần mỗi người cán bộ trong buổi hội thảo đó đứng lên phát biểu về sự quan tâm của họ, về nỗi đau của họ đối với trường hợp các ngư dân, chắc chắn mọi việc đã đổi khác.

Sự hiện hữu của nhân loại đến ngày hôm nay là bằng chứng vĩ đại về chiến thắng của cái thiện vượt trên cái ác. Và riêng dân tộc Việt Nam thì kết cục đó càng đúng hơn nữa vì đây không phải là một dân tộc khiếp nhược. Tôi nghĩ đến hình ảnh của Ls Lê Quốc Quân và bác sĩ Phạm Hồng Sơn khoác chặt tay nhau trên đường đến dự phiên toà của Ts Cù Huy Hà Vũ. Chỉ cần những hành động bình thường như thế, của rất nhiều người bình thường khác, chắc chắn đất nước sẽ thay đổi.

Xin cám ơn những giọt nước mắt của chị Nguyễn thị Thu Hiền hằng đêm. Xin cám ơn chị Nga, chị Dương Hà, và hàng trăm các chị khác. Cám ơn các chị đã đứng cùng các anh. Những hy sinh của các chị đã tặng dân tộc chúng ta thêm những ngọn nến hy vọng trong những tháng ngày đen tối này.

Ẩn đằng sau chuyến công du của thủ tướng

Bs. Hồ Hải

Cách đây 2 tuần, tôi có một cuộc khảo sát các bạn tôi là những giám đốc kinh doanh ở các lĩnh vực thương mại gồm: điện máy, hàng nông sản thực phẩm, tiêu dùng thiết yếu, thì sức mua của người dân giảm mạnh trong 8 tháng đầu năm 2013 chỉ còn 40% so với cùng kỳ năm 2012. Một số doanh nghiệp đã giảm biên chế hoặc giảm lương chỉ còn 40%. Sức mua giảm thì hàng tồn kho tăng, hàng tồn kho tăng thì buộc doanh nghiệp phải giảm hoặc ngưng sản xuất.

Một số doanh nghiệp làm ăn có lãi, còn sống sót nhờ đơn đặt hàng xuất khẩu, nhưng vay vốn hoạt động bị giảm xuống, vì giá trị thế chấp bất động sản đã giảm, thiếu vôn kinh doanh để đủ nuôi quân, họ đành giảm sản xuất, hoặc đóng cửa. Chỉ cần có thế, không cần phải làm cái gì to tác, để có thể hiểu được kinh tế Việt Nam đang ở đâu.

Nhưng khi ông thủ tướng Nguyễn tấn Dũng bắt đầu chuyến công du Pháp, để ký kết đồng minh chiến lược, thì cũng là lúc ở nhà các nhà kinh ban tế thế họp nhau ở Huế với cái gọi là: Diễn đàn kinh tế mùa thu.

Các nhà kinh bang tế thế bàn nhau rất hăng. Nào là kinh tế Việt Nam đã hạ cánh nặng nề, từ miệng ông chú tịch ủy ban giám sát tài chính quốc gia. Nào là kinh tế Việt Nam nghẽn mạch tăng trưởng từ ông viện trưởng viện kinh tế Việt Nam. Nào là kinh tế Việt Nam vỡ ổn định vĩ mô từ 5 năm qua từ ông cựu phó thủ tướng. Nếu chịu khó đọc thì toàn tin xấu.

Hôm nay, ông thủ tướng vừa đặt chân tới Washington DC. Gọi là đi họp lần 68 của Liên Hiệp Quốc, nhưng ông đã tức tốc đến thăm 3 nơi vô cùng quan trọng, mà từ trước tới nay chưa có nhà cầm quyền nào ở Việt Nam làm chuyến con thoi tấp cập như thế: World Bank, IMFBộ thương mại Hoa Kỳ, với những lời đề nghị rất thiết tha về vấn đề vay mượn, và mong mỏi Hoa Kỳ công nhận nền kinh tế Việt Nam là kinh tế thị trường tự do.

Có một điều mấu chốt là, tại sao các nhà kinh bang tế thế không ai dám đá động đến nguyên nhân sụp đổ kinh tế của nước Việt là chính trị không chịu thay đổi để phù hợp với kinh tế năng động? Thế mới thấy sự ràng buộc của 2 cái phàm là của Mao nó ghê gớm đến nhường nào?

Hai năm trước tôi đã có bài: Nhìn đến năm 2013. Trong đó, tôi đã nhận định rằng, kinh tế Việt Nam sẽ thực sự sụp đổ vào năm 2013, vì một nền chính trị phi khoa học, đi ngược với các quy luật xã hội học. Nhìn hình ảnh ông thủ tướng công du con thoi, mà bề ngoài là đi ký kết chiến lược với Pháp, và đi tham dự Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc lần thứ 68, nhưng bản chất là đi lo chuyện kinh tế nước nhà đang sụp đổ, chưa có thuốc chữa.


Tháng 10/2013 là tháng quyết định nhiều việc đối với Việt Nam. Vì nó là tháng mà quốc hội phải thông qua hiến pháp mới 2013 - sau 4 lần sửa đổi - để phù hợp tình hình mới. Cũng là tháng mà vòng đàm phán lần thứ 20 - cũng là vòng đàm phán cuối cùng - của Hiệp Định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương. Nhưng tới nay, quốc hội vẫn còn đang loay hoay với những chuyện xưa như trái đất - sở hữu và đơn nguyên hay đa nguyên chính trị. Và 81 tập đoàn kinh tế nhà nước vẫn chưa được tư nhân hóa, cũng như chưa được công nhận người dân được phép thành lập Hội. Tất cả những điều này quyết định cho Việt Nam có được tham gia tự nguyện vào TPP hay không. Không ai bắt buộc Việt Nam phải vào. Nhưng không vào thì không có cái để cứu lấy nền kinh tế đang sụp đổ. Trong khi đó để được vào là phải cải tổ hệ thống chính trị.

Chuyến công du của ông thủ tướng chỉ cách chuyến đi của ông chủ tịch nước đến Hoa Kỳ có 2 tháng. Cả hai chuyến đi đều có những hành động quyết liệt nhằm cứu lấy nền kinh tế đang sụp đổ thực sự. Hai chuyến đi dồn dập và những mục tiêu cho thấy tất cả. Nhưng Hoa Kỳ lại là một quốc gia không là con chiên của bất kỳ chủ thuyết nào, mà là một quốc gia theo cuộc sống hiện sinh thực dụng. Ngoại giao với Hoa Kỳ không chỉ bằng nước bọt.

Lần này thực sự là nguy ngập, nhưng trong cái nguy ngập ấy lại là cơ hội chính trị Việt Nam thay đổi như Miến Điện. Nếu không, hầu như mọi ngã đường đi đến tương lai của Việt Nam đều xấu. Vì lòng dân đã mất niềm tin. Xuất khẩu vẫn tốt mà sức mua của dân chúng lại cạn kiệt. Hệ thống tài chính ngân hàng đang ôm nợ xấu, dù giảm lãi suất, nhưng không tìm ra khách hàng cho vay, trong khi đó vẫn cứ tăng mức huy động vốn để tồn tại. Đó là những nghịch lý lớn đang tồn tại trong nền kinh tế Việt Nam, và chính chúng sẽ hủy diệt nền chính trị phi khoa học không bao lâu nữa.

Tư Gia, 20h31’ ngày thứ Sáu, 27/9/2013

Nguồn: Blog Bs Hồ Hải

Việt Nam vẫn đứng ngoài nhân loại và sự phát triển?

Tô Văn Trường

Chỉ cần tra cứu trên các phương tiện thông tin chính thống của Nhà nước có thể nhận thấy, đánh giá tình hình kinh tế trì trệ, vô vàn khó khăn làm người dân rối như “canh hẹ”. Hay nói đúng hơn là những người có trách nhiệm quản lý điều hành đất nước và bộ phận tham mưu giống như những học trò “kém” đang loay hoay đi tìm quỹ tích không hề có trong hình học không gian vậy!

Nguyên nhân cốt lõi

Tình hình các nước có sự phát triển vượt bực làm cho Việt Nam ngày càng lâm vào cảnh tụt hậu xa hơn. Thể chế và con đường chúng ta đang mò mẫm đi theo kiểu đã có “Đảng và Nhà nước lo” gây nên biết bao hệ lụy nhãn tiền!

Hiện nay, chỉ có ASEAN, Ucraina, Nga, Trung Quốc, Venezuela và Nam Phi công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường, nguyên nhân chỉ vì "kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo", không phải do được quyết định bởi quy luật cạnh tranh tự do của thị trường.

Cũng là da vàng, tóc đen sùng bái “Đạo Khổng", Singapore và Hàn Quốc cũng phải trải qua một thời kỳ kinh tế chính trị khắc khổ, độc tài và thắt lưng buộc bụng, mà sao con tàu kinh tế của họ vẫn về đến đích. Sự hy sinh của các thế hệ dẫu sao cuối cùng còn có nụ cười no ấm, dân chủ và hạnh phúc của con và cháu họ. Ít nhất sự trả giá còn có lối thoát.

Xã hội các nước châu Á có nét phát triển khác với châu Âu nên Mác-Ăng ghen có đề cập đến phương thức sản xuất châu Á. Theo tôi hiểu, thì phương thức sản xuất châu Á có đặc điểm là các cuộc cách mạng xã hội, gắn với các cuộc nổi dậy của nông dân, dù có thành công, cũng chỉ dẫn đến thay đổi dòng họ trị vì chứ không thay đổi chế độ xã hội như đã xảy ra tại châu Âu.

Do đó, nhân dân Việt Nam đã có câu tổng kết “Con vua thì lại làm làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa”. Nói cách khác, tâm lý phong kiến, tiểu nông đã ăn sâu vào thâm căn cố đế trong tư duy của người dân.

Các nước châu Á chưa qua giai đoạn cách mạng công nghiệp (gắn với thời đại phục hưng) như của các nước tư bản châu Âu. Do đó, nền sản xuất lớn cơ giới hóa được hình thành tại các nước này là do các nước thực dân, đế quốc phương Tây đưa vào chứ không phải do tự thân vận động của các nước đó. Tuy nhiên, cũng phải thấy Nhật Bản đã chủ động tiếp nhận quá trình công nghiệp hóa để phát triển nên mang tính chất ngoại lệ.

Chính sách đối với các nước thuộc địa của thực dân Pháp và thực dân Anh - Mỹ có nét khác biệt cơ bản. Về mặt kinh tế, thực dân Pháp duy trì nền kinh tế tại nước ta ở trình độ nền sản xuất nhỏ và chỉ đưa yếu tố của nền sản xuất lớn ở mức độ nhất định. Thế nhưng đế quốc Anh - Mỹ đã thực hiện chính sách tư bản hóa giai cấp lãnh đạo tại các nước mà họ đặt chân xâm chiếm, dẫn đến thực hiện công
nghiệp hóa tại các nước này.

Đối với Việt Nam, ai cũng nhìn thấy vấn đề ở đây là hạn chế về tư duy, phẩm chất của nhiều vị lãnh đạo, (do lỗi hệ thống tuyển chọn nhân tài). Vấn đề minh bạch, cần tra soát đề bạt và bãi miễn hệ thống nhân sự điều hành cho phù hợp với năng lực và hoàn cảnh cống hiến trở nên là "vấn đề "của Việt Nam trong con mắt các nhà đầu tư sáng giá và chuẩn "vàng ròng".

Còn chúng ta thì sao nhỉ? Ra nước ngoài thì cũng là thân phận thấp hèn, dù trí tuệ và nhân phẩm của một nhóm con người ưu tú đâu có thua dân tộc nào. Còn ở trong nước thì từ cao đến thấp phổ biến tự dối lừa bản thân và tự ngạo mạn vô lối. Trong dân gian có câu khẩu ngữ 4 D nói về “nhóm lợi ích” thao túng đất nước “Đố kỵ, Dối trá, Độc ác, Dửng dưng” nghe thật cay đắng, bởi thế chưa có thời kỳ nào người dân coi thường lãnh đạo như ngày nay.

Ngược lại, bản thân người dân cũng lúng túng, loay hoay không biết dựa vào "cột trục" chuẩn mực nào để xây cuộc đời.

Chỉ riêng bài toán kinh tế cũng không có nghiệm vì tình trạng phổ biến là nhiều vị lãnh đạo từ trung ương đến địa phương có xu hướng báo cáo nặng về thành tích, nói đến khuyết điểm chỉ mang tính chất cho có vẻ khách quan, cốt để đánh bóng cho bản thân mình, tìm cách trấn an dư luận xã hội.

Trong nội bộ lãnh đạo, không có cơ chế kiểm soát hữu hiệu, thiếu sự đấu tranh tự phê và phê bình một cách nghiêm túc dẫn đến mất đoàn kết nội bộ đã được đại hội Đảng nhiệm kỳ VI-XI liên tục ghi nhận nhưng hầu như không chuyển biến. Theo đánh giá của đại hội Đảng lần thứ VI thì đội ngũ cán bộ chiến lược (tham gia vào quá trình hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách) đã phạm sai lầm nghiêm trọng và kéo dài vì bị chi phối bởi hệ tư tưởng tiểu tư sản vừa tả khuynh vừa hữu khuynh.

Nợ công và con số thống kê

Để đánh giá “sức khỏe” của nền kinh tế phải dựa vào các con số thống kê, trong đó có nợ công để đưa ra các quyết sách. Tương tự như trong lĩnh vực khoa học tài nguyên nước, khi muốn xây dựng con đê, cống lớn, nhà máy thủy điện vv…người ta phải dựa vào mô hình toán thủy văn, thủy lực để mô phỏng lựa chọn phương án tốt nhất.

Độ chính xác của mô hình phụ thuộc vào số liệu cơ bản, chất lượng phần mềm tính toán và năng lực của người xử lý mô hình. Chỉ riêng số liệu cơ bản đầu vào mà sai thì chất lượng của mô hình coi như đồ bỏ, nếu sử dụng thì chỉ mang lại tai họạ! Đấy chỉ là trong phạm vi của ngành, còn số thống kê của cả nước sai sự thật, thì hậu quả còn lớn hơn nhiều.

Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan khi nghe những báo cáo thống kê nửa chặng đường phát triển kinh tế trong 5 năm từ 2011 – 2015, đã phát biểu "Các con số của Việt Nam cứ thế nào ấy. Tôi không dám tin. Thế mà chúng ta lại đem số liệu đấy ra phân tích nữa thì chắc là càng không đúng". Bản thân người viết bài này ngay từ mấy năm trước đã mạnh dạn viết về sự bất cập của số liệu thống kê Việt Nam qua các bài như “Nợ công đại vấn đề”; “Đằng sau các con số thống kê”; “Con số mà biết nói năng” vv…

Theo đánh giá của chuyên gia Vũ Quang Việt nguyên nhân của tình trạng bất ổn định kéo dài từ năm 2008 đến hôm nay thì dường như ai cũng biết. Nhà nước vừa chi tiêu quá trớn, vừa sử dụng chính sách đẩy mạnh tín dụng. Kết quả là đầu tư và phát triển thiếu chất lượng, nợ nước ngoài tăng, lạm phát cao, nợ xấu tăng, nhiều doanh nghiệp mất khả năng trả nợ và nhiều ngân hàng trên bờ phá sản, còn tốc độ tăng GDP thì lại trên đà suy giảm.

Tất nhiên trong tình hình như thế, doanh nghiệp không muốn đầu tư, ngân hàng bó buộc phải cắt giảm và thận trọng hơn trong cho vay. Đầu tư nước ngoài cũng không thể tăng như trước. Tình hình đình đốn như thế này sẽ còn kéo dài nhiều năm. Chính sách kích cầu chỉ như đổ dầu vào lửa. Tuy nhiên trong tình hình như thế, nhà nước không phải chỉ ngồi bó tay mà cần lợi dụng thời cơ thiết lập lại trật tự kinh tế.

Một trong những trật tự cần thiết lập (chứ không phải thiết lập lại) là hệ thống kiểm soát và cân bằng (check and balance) giữa Chính phủ và Quốc hội trong hoạt động kinh tế.

Loạn “sứ quân”!

Ngân sách là phản ánh cụ thể chính sách kinh tế. Ngân sách hàng năm được Quốc hội thông qua ở nhiều nước mang đầy đủ tính chất của một đạo luật. Vi phạm bằng cách vượt mức chi ngân sách đề ra là vi phạm luật. Điều này Quốc hội Việt Nam chưa bao giờ đặt ra và thực hiện, dù rằng Chính phủ chi vượt qui định là thực tế đã xảy ra hàng năm. Tỷ lệ chi ngân sách vượt mức Quốc hội quyết đã rất cao và còn đang tăng, từ 31% lên 42% trong khoảng thời gian 2007-2011.

Chỉ có thể thấy tính nghiêm trọng của vấn đề trên nếu đem so số nợ vay thêm trên với số nợ tối đa mà Chiến lược vay nợ của Chính phủ đã đề ra cho giai đoạn 2011-2015. Nợ tối đa được qui định là 225,000 tỷ đồng, tức là 10,6 tỷ US. Tuy nhiên, số nợ tăng thêm tính từ đầu năm 2011 đến tháng 6 năm 2013 đã hơn 11 tỷ US, nhưng vẫn còn 02 năm rưỡi nữa mới hết thời hạn kế kế hoạch. Đấy là chỉ kể nợ trái phiếu bao gồm cả tín phiếu ngắn hạn, chưa tính tới nợ vay chính phủ hay ngân hàng nước ngoài.

Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch & Đầu tư Bùi Quang Vinh nhận xét tham nhũng, lãng phí trong đầu tư công xuất hiện chủ yếu từ khâu quyết định chủ trương đầu tư. Hàng loạt các công trình xây dựng xong bỏ hoang, lãng phí không sử dụng, nhưng không ai chịu trách nhiệm cho nên khoản nợ đọng xây dựng cơ bản của các địa phương cả nước lên đến 91.000 tỉ đồng.

Theo tôi hiểu, thiếu tiền, nhiều địa phương lại tìm mọi cách “moi tiền” mà không biết ai có thể kiểm soát được họ, kể cả phát hành thêm trái phiếu, thêm nợ. Ngay ở Trung ương, ông Vương Đình Huệ Trưởng ban kinh tế tuyên bố là 7% lạm phát nằm trong kế hoạch những năm tới, có nghĩa là bình thường. Với tư duy kinh tế như vậy, không hiểu nền kinh tế của đất nước sẽ đi về đâu? Lẽ nào, theo Hiến pháp Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước nhưng thực tế mãi mãi vẫn chỉ là “hữu danh, vô thực”!?

Bài học về Vinashin

Ngay từ khi bùng nổ, vụ Vinashin đã được nhiều chuyên gia phân tích đánh giá rất sâu sắc. Tôi cũng đã viết bài “Vinashin đừng đánh bùn sang ao”.

Tháng 2/2013, có ý kiến cho rằng Bộ Tài chính có thể đứng ra bảo lãnh cho khoản nợ quốc tế tới 600 triệu USD của Tập đoàn Công nghiệp Vinashin Vinashin cùng 23 triệu đô la tiền lãi chưa thanh toán thành loại trái phiếu chiết khấu có thời hạn 12 năm, do Bộ Tài chính Việt Nam phát hành để tránh chủ nợ bắt các tầu cũng như ngăn chặn hàng hóa của Vinashin trên thị trường quốc tế để lấy lại vốn.
Đề án này đã được Tòa thượng thẩm chấp thuận hôm 4/9. Như vậy, nó không còn là nợ của Vinashin nữa. Bộ Tài chính đang phải “đứng mũi chịu sào” cho bao nhiêu những khoản nợ của nhóm “khu vực chủ đạo” - doanh nghiệp Nhà nước (DNNN)!?.

Người nước ngoài không cần biết tên Vinashin hay bất cứ thứ tên nào tương tự nữa. Đến ngày đáo nợ họ sẽ đến Bộ Tài chính để đòi. Nếu đã quyết định đẩy các công ty con đi cho người khác chịu trách nhiệm thì bây giờ cái còn lại đã là 01 công ty mới rồi. Nó không còn liên hệ gì với những cái bị đẩy đi nữa. Nhà nước đã lãnh đủ cái đó rồi. Vậy cái mới có đủ sức sống không thì phải đánh giá tình trạng tài chính và kế hoạch của họ trong tương lai. Thông tin ở đâu để đánh giá?

Về phát triển ngành đóng tầu trên thế giới thì đây là ngành đi xuống từ trước năm 2006 và sẽ tiếp tục đi xuống. Không có khả năng đóng tầu để bán. Vậy thị trường đóng tầu trong nước như thế nào? Có đóng nổi tầu chiến hay nên mua nước ngoài? Về mặt quản lý thì không hy vọng gì, bởi vì cái hệ thống quản lý quốc gia vẫn như cũ. Nếu không còn có thị trường đóng tầu thương mại mà chỉ có nhu cầu đóng tầu chiến thì nên giao nó cho quân đội.

Thay cho lời kết

Kinh nghiệm của nhiều quốc gia phát triển, và Đảng ta luôn nói lắng nghe mọi ý kiến góp ý, nhưng lắng nghe kiểu như vừa qua, thì rút cục đất nước VN vẫn sẽ đứng ngoài nhân loại, và sự phát triển. Chính sự tôn trọng sự khác biệt, tôn trọng mọi sự sáng tạo, trong đó, có tư duy, mới là động lực kích thích cho dân tộc đó phát triển, và cũng chứng tỏ chính quyền của quốc gia đó mạnh.

Người mạnh là người biết lắng nghe mọi chính kiến khác biệt.

 Nguồn: Blog Nguyễn Xuân Diện

Phỏng vấn bà Nhung về tình trạng Phương Uyên bị hành hung

RadioCTM

Vào tối ngày 25/09 vừa qua công an Hà Nội đã tấn công vào nhà ông Nguyễn Tường Thụy, cưỡng chế bắt gia đình ông và các khách mời - trong đó có sinh viên Nguyễn Phương Uyên cùng mẹ là bà Nguyễn Thị Nhung - dẫn về đồn công an. Phương Uyên đã bị công an hành hung và sàm sỡ; hiện nay tình trạng sức khỏe Phương Uyên được xem là nghiêm trọng.

Từ Bình Thuận bà Nguyễn Thị Nhung đã cho phóng viên Vân Quang biết sự việc vừa nêu, mời quí vị theo dõi.

Nghe cuộc phỏng vấn tại đây

Thứ Bảy, 28 tháng 9, 2013

Nguy và Cơ

Alan Phan

Một lập luận tôi nghe khá thường xuyên trong những lúc trà dư tửu hậu gần đây. Đó là tình hình suy thoái, nguy hiểm của chúng ta chứa nhiều “cơ hội tiềm năng” cho những doanh nghiệp biết nắm bắt và thích ứng. Thậm chí, một vài chuyên gia còn viết bài về “cơ may” của Việt Nam trong cơn khủng hoảng này.

Ai cũng đều đưa ra một minh chứng là từ ngàn xưa, chữ Trung Quốc đã ghi rõ “cơ” nằm giữa “nguy”. Những đầu óc đình đám nhất của chúng ta luôn giả định là các tổ tiên Tàu đã nói thế thì đây là chân lý rồi. Phận con cái phải nghe theo thôi. Thậm chí, một đại học giả còn nhắc chúng ta phải mang ơn mẫu quốc về cơm áo cũng như văn hóa đến đời đời con cháu sau này.

Ai cũng công nhận đi tìm “cơ” giữa “nguy” là một thái độ tích cực và sáng tạo. Hành động thể hiện một tư duy dựa trên niềm tin của tuổi trẻ, bất chấp những thất vọng của tình thế.

Tuy nhiên, khi sự lạc quan trở nên mù lòa và mất đi logic hay khoa học, “cơ” trong “nguy” trở thành một trò tuyên truyền dựng lên bởi các chánh trị gia để đa số người dân quên đi một thực tế khá bẽ bàng. Không có “cơ” nào cho một nền kinh tế mà phí quản lý cao hơn 42% GDP (mỗi đơn vị phải chi ra 42 xu mỗi đồng cho giá thành, chưa tính đến các phí tổn sản xuất hay tài chánh khác). Không có “cơ” nào cho một hệ thống tài chánh mà 63% đầu tư chạy vào bong bong bất động sản và nguy cơ nợ xấu có thể vượt qua 38% GDP. Không có “cơ” nào cho một cơ chế mà 68% đầu tư bị các doanh nghiệp nhà nước chiếm lĩnh theo lối kinh doanh OPM.

Bao giờ thì chúng ta hiểu ra rằng “cơ” đã đi mất từ lâu. Chỉ còn “nguy” và “nguy”./.

Nguồn: DienDanCTM

Dân biểu Úc yêu cầu thả Ls. Lê Quốc Quân


Ngày 27 tháng 9 năm 2013
Kính gửi Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng
Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
Đường Hoàng Văn Thụ
Hà Nội
Việt Nam

Kính thưa Thủ Tướng,

Tôi đã được cử tri người Úc gốc Việt thông tin về việc nhà cầm quyền Việt Nam bắt giữ luật sư nhân quyền Lê Quốc Quân vào tháng 12 năm 2012.

Ông Quân, một luật sư nhân quyền, một nhà đấu tranh dân chủ nổi tiếng và là một nghiên cứu sinh thuộc Endowment for Democracy tại Hoa Kỳ (2006-2007). Ông nghiên cứu về xã hội dân sự và có một trang blog về những vấn đề thời sự. Ông đã trở nên một tiếng nói nổi bật kêu gọi công bằng xã hội và nhân quyền.

Tôi được biết ông Quân bị bắt về tội trốn thuế, và phiên tòa dự định diễn ra vào đầu tháng 7 năm 2013. Tuy nhiên, việc xét xử đã không được tiến hành vì một ngày trước ngày xử, Tòa Án Nhân Dân Hà Nội thông báo là chánh án của phiên xử đã ngã bệnh.

Tôi rất quan ngại về việc ông Quân tiếp tục bị giam giữ hầu như hoàn toàn cô lập với bên ngoài cũng như thông tin gần đây cho biết là ông sẽ bị mang ra xét xử vào ngày Thứ Tư, 2 tháng 10 năm 2013.
Nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế đã lên tiếng kêu gọi chính phủ của Ông hủy bỏ những cáo buộc đến từ động cơ chính trị đối với ông Quân. Theo những tổ chức phi chính phủ này, ông Quân đã bị từ chối mọi thăm viếng trong mười tháng qua.

Một lần nữa, chúng tôi kêu gọi chính phủ của Ông hãy tôn trọng những cam kết quốc tế trong việc bảo vệ nhân quyền và quyền tự do tôn giáo và yêu cầu trả tự do vô điều kiện cho ông Lê Quốc Quân.
Trân trọng,

Luke Simpkins
Dân Biểu Liên Bang
Địa Hạt Cowan

Thứ Năm, 26 tháng 9, 2013

Bài biện hộ cho Ls Lê Quốc Quân trong phiên tòa ngày 2/10/2013


Sau khi đưa ra lịch xét xử Ls Lê Quốc Quân vào ngày 9/7/2013 tại Tòa án Nhân dân TP Hà Nội, 43 Hai Bà Trưng, Hà Nội thì đột ngột chiều 8/7, Tòa án hoãn xử vì thẩm phán bị “đột quỵ sau khi giao ban” – theo văn bản của Tòa án Nhân Dân Hà Nội.

Việc “thẩm phán bị đột quỵ sau khi giao ban” để phãi hoãn phiên tòa là sự hài hước, song điều này là có cơ sở theo hai khả năng sau đây:


- Có thể với bản chất của Tòa án độc tài, các vụ án chính trị đều là án bỏ túi, do vậy sau khi nhận bản án bỏ túi đối với Ls Lê Quốc Quân thẩm phán Lê Thị Hợp thấy rõ tội ác mình sắp nhúng tay vào đẩy một người công chính vô tội vào chốn lao tù là một sự ghê tởm và bất nhân. Hẳn nhiên kẻ gieo tội ác sẽ bị trừng trị, song kẻ nhúng tay vào tội ác thì cũngphải chịu trách nhiệm. Vì thế bà thẩm phán đã “bị đột quỵ” từ đó đến nay.

- Có thể tinh thần của người dân đến với phiên tòa, đã cho thấy tính chất phi lý và sự đê tiện, hèn hạ của nhà cầm quyền CSVN. Đặc biệt là trước những hoạt động ngoại giao của một số quan chức cộng sản đối với thế giới. Sự phản ứng mạnh mẽ bất ngờ khắp nơi đã khiến nhà cầm quyền CSVN “đột quỵ” ngay trước phiên tòa và phiên tòa phải hoãn lại đến nay.

Việc hoãn phiên tòa đã có quyết định xét xử sau 3 tháng là vi phạm pháp luật hiện hành, đồng thời phản ánh sự lúng túng, hoảng hốt và bất chính của nhà cầm quyền CSVN trong vụ án này.
Để quý vị độc giả hiểu thêm về bản chất vụ án chính trị mang danh trốn thuế như một cái cớ rất “ruồi bu” chúng tôi xin đưa một bản biện hộ của một luật sư về vụ án này/

Gửi Hội đồng xét xử,

Dư luận từ nhiều tháng này rất quan tâm đến việc ông Lê Quốc Quân bị khởi tố, bắt giam, điều tra và truy tố về tội “trốn thuế” theo Điều 161 của Bộ luật Hình sự nước CHXHCH Việt Nam kể từ ngày 25/12/2012, và hôm nay ngày 9/7/2013 bị xét xử về tội danh này. Không ai, kể cả tôi, nghĩ rằng bản Cáo trạng số 170/CT-VKS-P1 ngày 9/4/2013 của Viện Kiểm sát Nhân dân TP Hà Nội nêu xác đáng và chính đáng các chứng cứ pháp lý của cáo buộc nhằm vào ông Quân. Ai cũng tin rằng với động cơ đằng sau cáo buộc phi lý đó, chắc chắn ông Quân sẽ nhận một bản án nặng nề theo cách mà ông Nguyễn Văn Hải (tức Điều Cày) đã gánh chịu từ năm 2008 tại Sài Gòn.

Ls Lê Quốc Quân nộp đơn tự ứng cử Quốc hội
Tôi cố gắng tin khác đi, vì trong tôi ngọn lửa niềm tin vào công lý vẫn le lói với hy vọng nó còn tồn tại trên đất nước này. Vì phiên tòa là nơi được mệnh danh “bảo vệ và mang lại công lý” cho mọi người bất phân biệt sắc tộc, ngôn ngữ, tôn giáo và chính kiến, nên giờ đây tôi mạo muội đề nghị vị đại diện Viện Kiểm sát, thực hiện quyền công tố, tỉnh táo rút lại toàn bộ các cáo buộc phi lý đối với ông Lê Quốc Quân theo cáo trạng nêu trên, và đề nghị các vị thẩm phán cầm cân nẩy mực can đảm tuyên bố ông Quân hoàn toàn vô tội, và do vậy trả tự do ngay lập tức cho ông tại phiên tòa này.
Đề nghị của tôi dựa trên sự phân tích dưới đây đối với toàn bộ hồ sơ vụ án mà chính quý Tòa đã cung cấp. Rất mong quý vị đại diện hệ thống tư pháp của Việt Nam, ít nhất trong khuôn khổ phiên tòa ngày hôm nay, thành tâm và công minh lắng nghe hầu có một phán quyết hợp lý và hợp tình.

1. Có thật ông Lê Quốc Quân “trốn thuế” và do đó phạm “tội trốn thuế”?

1.1Thế nào là hành vi “trốn thuế” và “tội trốn thuế”?

Điều 161 của Bộ luật Hình sự nhắc đến “tội trốn thuế” và hành vi “trốn thuế”, nhưng tiếc thay không đưa ra bất kỳ định nghĩa hay quy định chi tiết nào về các yếu tố cấu thành tội phạm của “tội trốn thuế” hay về các dấu hiệu của một hành vi “trốn thuế”.

Nghị định số 98/2007/NĐ-CP ngày 7/6/2007 của Chính phủ “quy định về xử lý vi phạm pháp luật về thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế” cũng chỉ nhắc đến “vi phạm pháp luật về thuế”, chứ không trực tiếp định nghĩa hay quy định chi tiết về các yếu tố cấu thành tội phạm của “tội trốn thuế” theo Điều 161 của Bộ luật Hình sự hoặc cho thấy sự liên quan giữa “vi phạm pháp luật về thuế” với Điều 161 này.

Vì sự thiếu sót nêu trên của hệ thống luật pháp, Cơ quan Cảnh sát Điều tra trong vụ án “Lê Quốc Quân” đã tùy tiện vận dụng Điều 161 và diễn giải vô lối về hành vi “trốn thuế” và “tội trốn thuế” nhằm ngụy tạo chứng cứ bằng phương cách “suy đoán có tội”, qua đó dựng lên một vụ án hình sự hòng bỏ tù ông Lê Quốc Quân bằng mọi giá, đồng thời tìm cách tránh né bản chất “chính trị” của sự tước đoạt tự do trắng trợn này, mà tôi sẽ phân tích trong mục 2 dưới đây.

1.2 Quy trình khai nộp thuế thông thường tại Việt Nam như thế nào?

Theo quy định về khai nộp thuế hiện hành tại Việt Nam căn cứ Thông tư số 60/2007/TT-BTC ngày 14/6/2007 của Bộ Tài chính (hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quản lý Thuế) và Thông tư số 130/2008/TT-BTC ngày 26/12/2008 của Bộ Tài chính (hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế Doanh nghiệp và hướng dẫn thi hành Nghị định số 124/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thuế Doanh nghiệp), các doanh nghiệp tự kê khai và tạm nộp thuế theo định kỳ hàng quý và năm cho cơ quan thuế địa phương. Kết thúc mỗi năm, cơ quan thuế tổng kết để báo cáo cơ quan cấp trên cùng ngành về tình hình nộp thuế chung của các doanh nghiệp trong phạm vi địa bàn mình quản lý.

Thông thường, trong vòng ba đến năm năm sau đó, cơ quan thuế sẽ cử nhân viên đến làm việc với từng doanh nghiệp theo lịch hẹn trước để “quyết toán thuế” (một thuật ngữ thông dụng trong ngành thuế Việt Nam) đối với một năm tài chính cụ thể mà doanh nghiệp đã tự kê khai và tự nộp. Việc “quyết toán thuế” đó được thực hiện bằng cách xem xét sổ sách và chứng từ mà doanh nghiệp xuất trình, trong đó chủ yếu đánh giá việc kê khai những chi phí liên quan của doanh nghiệp hợp lý hay không, hầu làm cơ sở xác định thu nhập tính thuế đối với thuế thu nhập doanh nghiệp và xác định
thuế giá trị gia tăng mà doanh nghiệp có thể được hoàn lại.

Khuynh hướng của cơ quan thuế khi đánh giá việc kê khai chi phí là loại ra càng nhiều càng tốt những hóa đơn được lập không hợp lệ và những hóa đơn tuy hợp lệ nhưng không hợp lý đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp cụ thể. Một khi chi phí không được chấp nhận, thu nhập tính thuế đương nhiên sẽ tăng lên và thuế giá trị gia tăng đầu vào được hoàn lại sẽ giảm xuống. Nói cách khác, nhà nước sẽ có lợi vì truy thu thêm thuế thu nhập và không phải hoàn lại thuế giá trị gia tăng, mà doanh nghiệp khi tự kê khai và tự nộp đã tính không đúng ý của cơ quan thuế trong báo cáo nộp thuế của mình, chưa kể đến khoản lãi tính trên số tiền “chậm nộp” mà cơ quan thuế yêu cầu doanh nghiệp phải nộp từ kết quả loại bỏ chi phí này.

Khi không chấp nhận các hóa đơn dùng để tính chi phí trong quá trình “quyết toán thuế”, cơ quan thuế không vì thế cáo buộc doanh nghiệp “vi phạm pháp luật về thuế” và tất nhiên càng không tùy tiện quy chụp “trốn thuế” cho doanh nghiệp. Truy thu tiền thuế chưa nộp và yêu cầu nộp lãi trên số tiền chậm nộp là cách xử lý thông thường của cơ quan thuế trong mọi trường hợp như vậy.

Nghị định số 98/2007/NĐ-CP ngày 7/6/2007 quy định tại Khoản 1(i) Điều 14 rằng, trong số các “vi phạm pháp luật về thuế” có việc “sử dụng hoá đơn, chứng từ bất hợp pháp để hạch toán khống giá trị hàng hoá, dịch vụ mua vào làm giảm số tiền thuế phải nộp hoặc làm tăng số tiền thuế miễn, số tiền thuế giảm, số tiền thuế được hoàn”. Nhưng Điều 14 cũng nêu rõ như sau: “Các hành vi vi phạm quy định tại Điều này bị phát hiện trong thời hạn nộp hồ sơ khai thuế hoặc bị phát hiện sau thời hạn nộp hồ sơ khai thuế, nhưng không làm giảm số thuế phải nộp hoặc làm tăng số thuế được hoàn, số thuế miễn, giảm thì chỉ bị xử phạt về hành vi phạm về thủ tục thuế”.

Tôi sẽ chứng minh tại mục 1.4 dưới đây rằng ngay cả khi cơ quan thuế loại bỏ và không chấp nhận các hóa đơn bị xem là bất hợp pháp, thì cũng không làm giảm số tiền thuế mà Công ty TNHH Giải Pháp Việt Nam phải nộp.

Tất nhiên, do luật pháp Việt Nam vốn dĩ mơ hồ, lại trao nhiều quyền hạn cho các cơ quan nhà nước, nên quy trình khai nộp thuế nêu trên có thể bị đảo lộn bởi sự can thiệp tùy ý bất chấp đạo lý từ phía công quyền một khi người ta muốn khai tử bất kỳ doanh nghiệp nào mà người đứng đầu không biết điều đối với chính quyền hoặc không biết chung chi theo nhu cầu nhũng nhiễu của các quan chức ngành thuế.

1.3 Lập hợp đồng “khống” và sử dụng hóa đơn “khống” là “trốn thuế”?

Toàn bộ lý lẽ và lập luận của Cơ quan Cảnh sát Điều tra, Viện Kiểm sát, Cục Thuế Hà Nội và cơ quan giám định của Bộ Tài chính trong vụ án “Lê Quốc Quân” đều dựa trên cái gọi là hành vi lập hợp đồng “khống” và sử dụng hóa đơn “khống”. Tiếc thay, Điều 161 như đã nói trên hoàn toàn không quy định những hành vi như vậy là yếu tố cấu thành “tội trốn thuế”. Tôi công khai thách thức vị đại diện Viện Kiểm sát nêu ra được câu chữ nào trong Điều 161 trực tiếp hoặc gián tiếp nói đến khái niệm “khống” như vậy!

Ấy thế mà trong vụ án này và lần đầu tiên trong lịch sử tư pháp Việt Nam, khái niệm “khống” được sáng tạo ra để vin vào đó người ta chụp mũ “trốn thuế” cho những ai không thể bị bắt giam vì những nguyên cớ luật định khác. Một bộ máy nhân lực được vận hành với phí tổn có thể lên đến hàng chục tỷ bạc, lao vào làm việc hơn một năm trời, hết người này đến người nọ, hết mưu này đến kế nọ, hết trò này đến trò nọ, chỉ để tìm ra một bằng chứng về việc trốn thuế vài trăm triệu đồng chẳng bõ, nhằm mục đích duy nhất là tống giam kẻ mà chính quyền này không thiện cảm.

Cần lưu ý, mọi kết luận của các cơ quan tham gia tố tụng nói trên nhằm chứng minh cho sự tồn tại của cái gọi là “khống” đều chỉ dựa trên kết quả xét hỏi một vài nhân chứng hoặc người có liên quan đến Công ty TNHH Giải Pháp Việt Nam mà thôi. Điều cần nói ở đây là không thể loại trừ khả năng trấn áp và đe dọa về tinh thần có thể có của Cơ quan Cảnh sát Điều tra đối với những người đã cung cấp “lời khai” mơ hồ, một chiều và không đáng tin ấy. Vậy mà, những lời khai xuất hiện trong bối cảnh như vậy đã trở thành chứng cứ chính yếu buộc tội ông Lê Quốc Quân. Ai có thể tin?

Lẽ ra trong quy trình khai nộp thuế của các doanh nghiệp tại Việt Nam như đã nêu tại mục 1.2 trên đây, nếu cơ quan thuế không chấp nhận các chi phí mà Công ty TNHH Giải Pháp Việt Nam tự khai để rồi tự nộp thuế cho các năm 2010 và 2011, thì một cách bình thường cơ quan thuế sẽ truy thu tiền thuế chưa nộp và yêu cầu nộp lãi trên số tiền chậm nộp sau khi chính cơ quan thuế thực hiện công việc “quyết toán thuế” mà thông thường phải vài năm sau khi doanh nghiệp này tự khai và tự nộp.
Có một chi tiết mà tôi xin quý Tòa cần lưu ý, rằng trong khi Chi cục Thuế Quận Cầu Giấy chưa từng “quyết toán thuế” đối với Công ty TNHH Giải Pháp Việt Nam theo quy trình nêu trên để quyết định chấp nhận hay không các chi phí mà công ty đã kê khai thông qua các hóa đơn đã xuất trình, thì cơ quan an ninh đã “nhanh nhẹn” và “mẫn cán” đến mức từ cuối năm 2011, Phòng An ninh Kinh tế (PA 81) đã yêu cầu Cục thuế Hà Nội thanh tra thuế của hai doanh nghiệp có liên quan đến ông Lê Quốc Quân là Công ty TNHH Thông Tin Tín Nhiệm và Xếp hạng doanh nghiệp và Công ty TNHH Giải Pháp Việt Nam với lý do buồn cười là “để phục vụ cho công tác đảm bảo An ninh kinh tế trên địa bàn TP Hà Nội” và lời nhắn gửi đáng lưu tâm rằng “kính mong các đồng chí quan tâm giúp đỡ sớm” (xem Công văn số 737/CV-CAHN-PA 81 ngày 26/12/2011 do Phòng An ninh Kinh tế gửi Cục thuế Hà Nội tại Bút lục số 0186).

Xin mở và đóng ngoặc tại đây, rằng tôi bỗng dưng chạnh lòng ao ước phải chi trong các vụ án động trời “Vinashin” và “Vinalines”, người ta cũng “nhanh nhẹn” và “mẫn cán” một nửa như thế, ắt hẳn số tiền thất thoát khổng lồ ấy đã được thu hồi hết từ lâu và “an ninh kinh tế” của đất nước này chẳng có gì đáng lo ngại như ngày hôm nay cả (!).

Chúng ta phải hiểu sự “nhanh nhẹn” và “mẫn cán” này như thế nào đây khi chưa đầy một năm kể từ ngày Phòng An ninh Kinh tế (PA 81) yêu cầu Cục thuế Hà Nội thanh tra thuế, một vụ án “trốn thuế” đã được dựng lên, mà trong đó cách thức thu thập và phân tích “chứng cứ” rất đáng nghi ngờ như tôi sẽ phân tích dưới đây?

Trở lại vấn đề, việc sáng tạo và sử dụng khái niệm “khống” để kết luận các hợp đồng và hóa đơn của Công ty TNHH Giải Pháp Việt Nam là bất hợp pháp rõ ràng là hành động diễn giải luật pháp tùy tiện theo hướng “suy đoán có tội”, vì như đã nói không một từ, câu hay dòng nào trong Điều 161 nêu rõ hay ngụ ý về một “cơ sở pháp lý” như vậy nhằm cáo buộc “trốn thuế”. Thật ra, chính cách thức ngụy tạo chứng cứ đó mới đáng gọi là “khống” vì trên thực tế nó là sự quy chụp vô căn cứ.
Như vậy, thay vì đơn giản loại bỏ các hóa đơn không hợp lệ và hợp lý, việc áp dụng khái niệm “khống” từ nay sẽ đặt tất cả các doanh nghiệp và doanh nhân ở đất nước này vào tình trạng rủi ro vì lưỡi gươm Damocles “trốn thuế” luôn thường trực treo trên đầu họ. Lúc đó, muốn bắt ai, lưỡi gươm đó chỉ cần hạ xuống do không doanh nghiệp nào không có ít nhất một hóa đơn “khống”. Thưa quý Tòa, tôi mạo muội khẳng định rằng mọi hóa đơn mà các doanh nghiệp của chúng ta hằng ngày vẫn chi trả cho các buổi nhậu nhẹt để o bế các quan chức ngành công an, thuế, hải quan, tòa án, v.v… đều là các hóa đơn “khống” theo nghĩa đó.

1.4 Cách tính số tiền “trốn thuế” của cơ quan điều tra và cơ quan giám định tư pháp rất bất bình thường

Để tỏ ra “khách quan” trong việc cáo buộc ông Lê Quốc Quân có hành vi “trốn thuế”, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Thành phố Hà Nội đã yêu cầu Cục Thuế Hà Nội và giám định viên tư pháp của Bộ Tài chính tiến hành giám định các sổ sách, chứng từ và tài liệu thuế của Công ty TNHH Giải Pháp Việt Nam (xem Công văn số 1132/CV-CSĐT- Đ9 ngày 4/2/2013 gửi Cục Thuế Thành phố Hà Nội tại Bút lục số 0094 và Công văn số 1514/CV-PC46(Đ9) ngày 6/3/2013 gửi Bộ Tài chính tại Bút lục số 0084).
Theo tôi, cách tính số tiền “trốn thuế” của cơ quan điều tra và kết quả giám định của các cơ quan giám định tư pháp, mà dựa vào đó ông Lê Quốc Quân bị vu có hành vi “trốn thuế”, hoàn toàn có tính chất áp đặt nhằm đánh tráo sự thật, bởi những lẽ sau:

(a) Do cùng trong một bộ máy nhà nước và cùng được ngân sách chính quyền chi trả mọi chi phí hoạt động và lương bổng, có cơ quan và quan chức công quyền nào ở đất nước này độc lập và can đảm đến mức có thể không thực hiện chỉ thị của Đảng Cộng Sản và guồng máy trấn áp của nó là công an? Vậy, trước đơn đặt hàng của Bộ Công an và Cơ quan Cảnh sát Điều tra Thành phố Hà Nội, liệu Cục Thuế Hà Nội và giám định viên tư pháp của Bộ Tài chính có đủ trung thực và đạo đức cần thiết để thực hiện công việc giám định và cung cấp một kết luận khách quan vốn ảnh hưởng quan trọng đến “chứng cứ” trong vụ án “Lê Quốc Quân”?

Các biên bản và kết luận giám định trong hồ sơ vụ án này thật ra chỉ là những tài liệu trang trí và tô vẽ cho cái gọi là “tính khách quan” của “chứng cứ phạm tội”. Dư luận nhân dân và giới trí thức, kể cả luật sư, đều biết đó là màn kịch hài hước quen thuộc mà vị tổng đạo diễn của nó là ai (!). Hầu như trong các vụ án liên quan đến những nhân vật bất đồng chính kiến, dù trên danh nghĩa “an ninh quốc gia” hay “trốn thuế”, người ta đều thấy lấp ló trò hề đó dưới sắc thái này hay sắc thái kia.

Tôi thách thức vị đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố dũng cảm cho trưng cầu giám định của một tổ chức chuyên nghiệp và độc lập với chính quyền về toàn bộ tài liệu mà Cơ quan Cảnh sát Điều tra đã thu thập, chính đáng và không chính đáng, tại trụ sở Công ty TNHH Giải Pháp Việt Nam. Tôi cũng đề nghị Viện Kiểm sát đánh giá lại toàn bộ các biên bản ghi lời khai mà Cơ quan Cảnh sát Điều tra đã lập khi xét hỏi nhân chứng và người có liên quan nhằm xử lý hành động đe dọa, trấn áp và mớm cung từ phía điều tra viên đối với họ. Những trò bẩn thỉu đó không được phép có trong một nền tư pháp luôn tự xưng là lành mạnh và bảo vệ quyền con người!

(b) Khi trưng cầu giám định, Cơ quan Cảnh sát Điều tra đặt trước một tiền đề với Cục Thuế Hà Nội và Bộ Tài chính, rằng họ đã xác định Công ty TNHH Giải Pháp Việt Nam sử dụng hóa đơn “khống” bất hợp pháp trong các năm 2010 và 2011. Từ tiền đề như vậy, cả Cục Thuế Hà Nội và giám định viên tư pháp của Bộ Tài chính đã nhanh nhẩu kết luận lần lượt như sau:

Hiện tại, Cơ quan Cảnh sát Điều tra đã có căn cứ xác định 61 số hóa đơn là bất hợp pháp, cụ thể như sau: […].

Như vậy, Công ty TNHH Giải Pháp Việt Nam đã có hành vi trốn thuế, gian lận thuế […]

(Trích Công văn số 6576/CT-TTr1 ngày 13/3/2013 của Cục Thuế Hà Nội tại Bút lục số 0099)

Hoặc: “Hành vi sử dụng bất hợp pháp hóa đơn của Công ty đã vi phạm quy định tại Khoản 2 Điều 21 Thông tư số 153/2010/TT-BTC ngày 28/9/2010 của Bộ Tài chính, cụ thể:

“Hóa đơn có nội dung được ghi không có thực một phần hoặc toàn bộ”

“Sử dụng hóa đơn bán hàng hóa, dịch vụ mà cơ quan thuế, cơ quan công an và các cơ quan chức năng khác đã kết luận là sử dụng bất hợp pháp hóa đơn”

Từ những căn cứ trên Giám định viên xác định:

Công ty TNHH Giải Pháp Việt Nam đã có hành vi sử dụng bất hợp pháp hóa đơn, hạch toán chi phí khống nhằm làm giảm số thuế TNDN (chú thích: thu nhập doanh nghiệp) phải nộp năm 2010, 2011. […]

Kết quả giám định: Tổng số thuế TNDN phải nộp là: 645.225.197 đồng.

(Trích Kết luận Giám định Tư pháp ngày 22/3/2013 của Giám định viên tư pháp của Bộ Tài chính Vũ Tất Thắng tại Bút lục số 0087)

Thưa quý Tòa, một cách công tâm, quý vị nghĩ rằng điều đó có thể gọi là “giám định tư pháp” được chăng? Nó như một trò tung hứng giữa Cơ quan Cảnh sát Điều tra với Cục Thuế Hà Nội và Bộ Tài chính. Thiết nghĩ, trước một tiền đề võ đoán rằng Công ty TNHH Giải Pháp Việt Nam đã sử dụng hóa đơn bất hợp pháp, thì đến một đứa trẻ con cũng có thể giở luật ra, chỉ tay vào câu viết sẵn và kết luận “có trốn thuế”, cần chi đến đội ngũ chuyên gia “giám định” màu mè ấy!

Đọc hai bản kết luận giám định nêu trên, tôi có cảm giác Cơ quan Cảnh sát Điều tra hoàn toàn có thể tự mình kết luận luôn rằng ông Lê Quốc Quân đã trốn thuế, cần chi mượn đến miệng của Cục Thuế Hà Nội và Bộ Tài chính. Tuy nhiên, để thiên hạ trông vào thấy cũng có vẻ “khách quan” và “vô tư”, nên Cơ quan Cảnh sát Điều tra buộc phải làm công việc trưng cầu giám định tốn kém như vậy.
Lẽ ra, điều cần giám định là có hay không việc sử dụng hóa đơn bất hợp pháp, bởi đó mới là mấu chốt của vấn đề. Tất nhiên, gọi là “bất hợp pháp” hay không, hẳn không phải đơn giản chỉ dựa trên lời khai của vài ba nhân chứng và người có liên quan, bởi nếu không dư luận sẽ dị nghị về khả năng ngụy tạo chứng cứ của điều tra viên bằng hành động đe dọa, trấn áp và mớm cung mà tôi đã nêu ở trên.

(c) Trong hai bản kết luận giám định của Cục Thuế Hà Nội và Bộ Tài chính, người ta không thấy số tiền trốn thuế 645.225.197 đồng của hai năm 2010 và 2011 mà giám định viên kết luận, được tính toán dựa trên những con số cụ thể nào và bằng các phép tính cộng, trừ, nhân, chia chi tiết nào. Hai bản kết luận đó đều chỉ nêu vài con số tổng quát mà Cơ quan Cảnh sát Điều tra đã liệt kê sẵn, chẳng hạn tổng giá trị của các hợp đồng “khống” là 1.750.000.000 đồng và tổng giá trị của các hóa đơn “khống” là 830.900.790 đồng.

Phải chăng các giám định viên của Cục Thuế Hà Nội và Bộ Tài chính chỉ đơn giản sao chép lại con số 645.225.197 đồng mà Cơ quan Cảnh sát Điều tra đã tính toán sẵn cho mình? Điều đó gọi là “giám định” sao? Hỏi vậy thôi, chứ tôi hiểu ai là người “dám định” ở đây nếu không phải đó là Bộ Công an (?!).

(d) Mặt khác, xin nói về con số 645.225.197 đồng. Tôi làm đủ các phép tính dựa trên những số liệu mà hồ sơ vụ án thể hiện, thì mới phát hiện rằng con số này được tính như sau:

1.750.000.000 đồng + 830.900.790 đồng = 2.580.900.700 đồng
2.580.900.700 đồng X 25% = 645.225.197 đồng

Vậy, 25% được hiểu là thuế suất áp dụng để tính thuế thu nhập doanh nghiệp? Nếu đúng vậy thì quả thật cách tính thuế này rất bất thường và hoàn toàn có tính chất áp đặt nhằm đánh tráo sự thật. Kết luận Giám định Tư pháp ngày 22/3/2013 của Giám định viên Vũ Tất Thắng (xem Bút lục số 0087) đã nêu cách tính thuế theo luật pháp hiện hành như sau:

Thuế TNDN = Thu nhập tính thuế X Thuế suất thuế TNDN

Thu nhập tính thuế = Thu nhập chịu thuế – (Thu nhập được miễn thuế + Các khoản lỗ được kết chuyển theo quy định)

Thu nhập chịu thuế = (Doanh thu – Chi phí được trừ) + Các khoản thu nhập khác

Như vậy, để xác định thu nhập tính thuế, cần phải xác định trước tổng doanh thu và toàn bộ chi phí hợp lệ của Công ty TNHH Giải Pháp Việt Nam trong hai năm 2010 và 2011. Số tiền 2.580.900.700 đồng chỉ là một phần của doanh thu chung và do đó phải được nhập vào khối doanh thu chung của công ty. Sau đó, lấy tổng doanh thu trừ đi toàn bộ chi phí hợp lệ nhằm xác định thu nhập tính thuế. Một khi có thu nhập tính thuế bằng phương pháp tính như vậy, ta mới nhân với thuế suất thuế TNDN là 25% để xác định được thuế TNDN phải nộp.

Với phương pháp tính toán mà Giám định viên Vũ Tất Thắng nêu ra, chúng tôi đã tính toán lại số thuế TNDN của Công ty TNHH Giải Pháp Việt Nam trong hai năm 2010 và 2011 căn cứ trên số liệu thể hiện trong hồ sơ do quý Tòa cung cấp, có tham chiếu con số 2.580.900.700 đồng cùng số tiền thuế mà công ty đã nộp theo các hóa đơn và hợp đồng bị xem là “khống”. Kết quả cho thấy có lẽ nhà nước phải mắc nợ Công ty TNHH Giải Pháp Việt Nam hơn là cáo buộc họ “trốn thuế”, vì họ đã nộp dư tiền thuế trong hai năm 2010 và 2011 khi tự khai và tự nộp.

Câu hỏi cần đặt ra là tại sao Cơ quan Cảnh sát Điều tra chỉ đơn giản dùng thuế suất 25% áp vào số tiền 2.580.900.700 đồng, rồi vội vã kết luận ông Lê Quốc Quân “trốn thuế” 645.225.197 đồng? Cách tính sai lệch cố tình này của phía cơ quan công an đã bóp méo bức tranh nộp thuế nghiêm túc của Công ty TNHH Giải Pháp Việt Nam, để từ đó vu oan cho ông Quân, rõ ràng mang động cơ khác với cái gọi là “đảm bảo an ninh kinh tế” như Phòng An ninh Kinh tế (PA 81) của Công an Hà Nội đã nêu trong Công văn số 737/CV-CAHN-PA 81 ngày 26/12/2011 (xem Bút lục 0186) (!).

Đó là lý do vì sao trong tất cả các biên bản làm việc với Cơ quan Cảnh sát Điều tra, được ghi nhận trong hồ sơ do quý Tòa cung cấp, ông Lê Quốc Quân đã luôn tuyên bố mình vô tội và xác định đây là một âm mưu chính trị chống lại ông và gia đình do các hoạt động kêu gọi tôn trọng quyền con người và bảo vệ chủ quyền đất nước của ông. Tuy nhiên, cơ quan chịu trách nhiệm giám sát sự tuân thủ pháp luật trong toàn bộ tiến trình tố tụng của một vụ án hình sự là Viện Kiểm sát TP Hà Nội đã làm ngơ trước mọi lời kêu gọi điều tra động cơ mờ ám đó từ ông Quân lẫn từ các luật sư đại diện cho ông trong thời gian qua. Tôi sẽ phân tích động cơ “chính trị” của phía công an trong vụ án này tại mục 2 dưới đây.

(e) Như vậy, ai cũng có thể dễ dàng nhận ra rằng việc cáo buộc phạm tội của Cơ quan Cảnh sát Điều tra đối với ông Lê Quốc Quân không dựa trên chứng cứ cụ thể và rõ ràng. Tất cả đều được dàn dựng một cách có chủ đích từ ban đầu như thể nhằm thực hiện một “đơn đặt hàng” buộc tội ông Quân, nhất là trong cách thức tiến hành giám định như tôi đã phân tích ở trên và thủ tục xét hỏi nhân chứng và người có liên quan.

Toàn bộ “chứng cứ” được tạo dựng từ sự suy đoán “có tội” và từ các lời khai đơn thuần của các nhân viên Công ty TNHH Giải pháp Việt Nam và các bên liên quan khác trong những buổi làm việc không có sự chứng kiến của luật sư, không có sự đối chất giữa họ và ông Lê Quốc Quân.

Khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định rằng khi có sự mâu thuẫn trong lời khai giữa hai hay nhiều người thì điều tra viên tiến hành đối chất. Việc những người có liên quan khai nhận rằng anh Lê Quốc Quân “lập hồ sơ khống và chỉ đạo về việc dùng hoá đơn thuế GTGT khống” nhằm trốn thuế, mà dựa vào đó cơ quan điều tra đã cáo buộc anh Lê Quốc Quân phạm tội, rõ ràng mâu thuẫn với các tuyên bố của anh Quân trong quá trình xét hỏi. Tuy nhiên, cơ quan điều tra đã không tiến hành đối chất và làm ngơ trước mọi yêu cầu đối chất của anh Quân. Quả thật, hồ sơ vụ án đã không đề cập gì đến bất kỳ buổi đối chất nào trong quá trình điều tra xét hỏi. Đây rõ ràng là sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

2. Vụ án “Lê Quốc Quân” là một vụ án có động cơ chính trị

Vụ án “Lê Quốc Quân” tuy mang danh nghĩa “Trốn thuế” theo Điều 161 của Bộ luật Hình sự, nhưng trên thực tế có tính chất chính trị, bởi những lý do sau đây:

2.1 Sự tham gia của các điều tra viên thuộc Cơ quan An ninh Điều tra phải chăng là bình thường?

Các điều tra viên tham gia vụ án hầu hết từ Cơ quan An ninh Điều tra, chứ không phải Cơ quan Cảnh sát Điều tra (xem ba Quyết định điều động cán bộ của Giám đốc Công an TP Hà Nội ngày 18/10/2012 tại các Bút lục 0004, 0005 và 0006). Tội trốn thuế theo Điều 161 thuộc nhóm “các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế” quy định tại Chương XVI của Bộ luật Hình sự, thông thường do Cơ quan Cảnh sát Điều tra tiến hành điều tra. Việc điều động nhân viên an ninh tham gia điều tra cho thấy tính chất “chính trị” rõ ràng của vụ án này.

Chính Viện Kiểm sát Nhân dân TP Hà Nội cũng đã hiểu vụ án này do Cơ quan An ninh, chứ không phải Cơ quan Cảnh sát, chịu trách nhiệm điều tra, nên trong Quyết định số 73/QĐ-VKS(P1) ngày 25/2/2013 về việc gia hạn thời hạn điều tra vụ án hình sự, Viện Kiểm sát Nhân dân TP Hà Nội đã ghi “nhầm” rằng Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 38/CQCSĐT ngày 25/12/2012 là của “Cơ quan An ninh Điều tra” (xem Bút lục 0008). Đây là bằng chứng cho thấy trong suy nghĩ của nhà cầm quyền bản chất của vụ án này là chính trị, chứ không phải kinh tế thuần túy.

2.2 “Trốn thuế” thật ra chỉ là chiêu bài và sử dụng hợp đồng “khống” và hóa đơn “khống” chỉ là cớ để bắt giam

Vào ngày 25/12/2012 Cơ quan cảnh sát điều tra (PC46) thuộc Công an TP Hà Nội chính thức có Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 38/CQCSĐT (xem Bút lục 0007), tức về mặt pháp lý kể từ ngày 25/12/2012 vụ án mới được bắt đầu. Tuy nhiên, vụ án này được Ban Giám đốc Công an TP Hà Nội đặc biệt quan tâm đến mức thành lập hẳn một “Ban chỉ đạo điều tra vụ án” theo Quyết định số 572/QĐ-CAHN ngày 24/10/2012, tức hai tháng trước khi có vụ án (!).

Đây là điều bất thường đối với bất kỳ vụ án trốn thuế mang bản chất “kinh tế” thuần túy nào. Nói cách khác, trong khi chưa có vụ án chính thức về phương diện tố tụng hình sự, Công an TP Hà Nội đã chuẩn bị sẵn một “vụ án” với những “chứng cứ” được tạo dựng để bắt giam ông Lê Quốc Quân.
Như tôi đã trình bày ở trên, khi không thể bắt giam ông Lê Quốc Quân một cách công khai vì lý do “an ninh quốc gia”, cơ quan công an phải dựng lên một vụ án hình sự vì nguyên cớ khác. Ông Quân là một doanh nhân đang điều hành Công ty TNHH Thông tin tín nhiệm và Xếp hạng doanh nghiệp và Công ty TNHH Giải pháp Việt Nam, nên sử dụng chiêu bài “trốn thuế” đương nhiên là sự lựa chọn thích hợp để hãm hại ông. Do vậy, từ một năm trước đó, tức cuối năm 2011, vụ án “trốn thuế” đã được đạo diễn nhằm tìm lý lẽ và lập luận chuẩn bị cho việc khởi tố.

Hợp đồng “khống” và hóa đơn “khống” là mấu chốt để ghép vào quy định tại Khoản 2 Điều 21 Thông tư số 153/2010/TT-BTC ngày 28/9/2010 của Bộ Tài chính: “Sử dụng hóa đơn bán hàng hóa, dịch vụ mà cơ quan thuế, cơ quan công an và các cơ quan chức năng khác đã kết luận là sử dụng bất hợp pháp hóa đơn.” Tuy nhiên, do không có chứng cứ khẳng định các hợp đồng và hóa đơn mà Công ty TNHH Giải pháp Việt Nam sử dụng là bất hợp pháp, nên phía công an buộc phải ép nhân viên của công ty và những bên có liên quan thừa nhận điều đó.

2.3 Cản trở luật sư tham gia từ giai đoạn điều tra và không cho gia đình thăm gặp bị can phải chăng là điều bình thường đối với các tội “xâm phạm trật tự quản lý kinh tế” như trốn thuế?

Mặc dù ông Lê Quốc Quân luôn yêu cầu sự tham gia của luật sư từ giai đoạn khởi tố bị can, nhưng hầu như toàn bộ quá trình điều tra xét hỏi đã diễn ra không có sự tham gia của luật sư. Theo Điều 58 của Bộ Luật Tố tụng Hình sự, chỉ trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, người bào chữa mới tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.

Việc cản trở và gây khó khăn cho luật sư tham gia từ giai đoạn điều tra xét hỏi vụ án “Lê Quốc Quân” cho thấy cơ quan điều tra luôn xem vụ án này có tính chất chính trị và liên quan đến “an ninh quốc gia”, hơn là mang bản chất kinh tế như luật định.

Không chỉ luật sư bị cản trở, mà việc thăm gặp bình thường của người nhà bị can cũng bị cấm trong vụ án này. Trừ vụ án “Nguyễn Văn Hải” (tức Điếu Cày) trước đây, chưa bao giờ các bị can đang bị điều tra về các tội “xâm phạm trật tự quản lý kinh tế” bị cấm gặp gia đình sau khi quá trình điều tra đã kết thúc và vụ án chờ xét xử.

2.4 Các tài liệu nào mà cơ quan công an quan tâm khi khám xét nhà ông Lê Quốc Quân?

Tại buổi khám xét nhà của ông Lê Quốc Quân, cơ quan điều tra đã tịch thu một số sách và tài liệu riêng của anh và gia đình. Theo Điều 145 của Bộ Luật Tố tụng Hình sự, khi khám xét điều tra viên chỉ tạm giữ đồ vật là vật chứng và tài liệu có liên quan trực tiếp đến vụ án. Trong Bảng thống kê tài liệu thu giữ (xem Bút lục số 0046), hầu hết sách và tài liệu bị tạm giữ đều có nội dung “nhạy cảm” về chính trị đối với nhà cầm quyền mặc dù không liên quan đến vụ án “trốn thuế”.

Thay vì hoàn trả lại cho ông Lê Quốc Quân và gia đình, cơ quan công an đã tiếp tục giữ lại sau khi mở niêm phong đồ vật vào ngày 20/3/2013. Trong Biên bản mở niêm phong lập cùng ngày, có đoạn ghi: “xét thấy một số đồ vật, tài liệu cần phải điều tra, xác minh làm rõ, nên CQĐT-Công an TP Hà Nội tiến hành thu giữ”. Như vậy, dường như cơ quan công an rất quan tâm các tài liệu về chính trị mà ông Quân lưu trữ.

* * * *

Kính thưa quý Tòa, trên đây là phân tích và nhận định của tôi về vụ án “Lê Quốc Quân”. Căn cứ Điều 161 của Bộ Luật Hình sự, không có bất kỳ chứng cứ hoặc yếu tố nào xét về mặt pháp lý cho thấy ông Lê Quốc Quân phạm tội “trốn thuế”. Nếu vị đại diện Viện Kiểm sát vẫn khăng khăng giữ nguyên cáo buộc phi lý này, tôi đề nghị quý Tòa sáng suốt và công minh tuyên bố ông Lê Quốc Quân hoàn toàn vô tội, và do vậy trả tự do ngay lập tức cho ông tại phiên tòa này.

Tuy nhiên, nếu quý Tòa vẫn muốn làm theo lệnh hoặc đơn đặt hàng của cơ quan công an, thì tôi đề nghị quý Tòa hãy can đảm tuyên án ông Quân phạm một tội nào đó, nếu có đủ chứng cứ, thuộc về “xâm phạm an ninh quốc gia” hơn là phải nấp dưới danh nghĩa “trốn thuế” mà ai cũng biết là một trò hề kiểu “hai bao cao su” trong vụ án “Cù Huy Hà Vũ”.

Nếu hôm nay, ông Lê Quốc Quân vẫn bị tuyên phạm tội “trốn thuế”, thì thật là thêm một ngày buồn đối với nhưng ai yêu chuộng công lý và lẽ phải ở đất nước này. Riêng trong suy nghĩ của tôi, sau khi quý vị tuyên một bản án như vậy và rời khỏi phòng xử án, quý vị đã góp tay viết thêm vào trang sử điếm nhục của nền tư pháp Xã hội Chủ nghĩa hai chữ “đê hèn” muôn đời không thể xóa được!

Trân trọng.

Luật sư

Nguồn: Nữ Vương Công Lý

Phương Uyên bị hành hung: ’nó đánh, nó tát hộc cả máu mồm máu mũi’

Nguyễn Tường Thụy

Tôi vừa liên lạc với cháu Phương Uyên lúc 9h01’. Cháu cho biết chúng áp giải hai mẹ con cháu lên máy bay và đã xuống sân bay. Hiện chúng đang áp giải mẹ con cháu về quê.
Cháu cho biết chúng đánh con rất đau bố ạ, nó đánh, nó tát hộc cả máu mồm máu mũi.

Quân chó đẻ.

Cháu bảo: máy hết pin về đến nhà con sẽ nói chuyện tiếp. Nếu chiều nay con không gọi điện cho bố thì nghĩa là nó mang con nộp cho Tàu Khựa rồi bố ạ.

Thương con quá.

Bấm vào đây để xem cảnh côn an hành hung Phương Uyên.

Nguồn: FB Nguyễn Tường Thụy

Dân biểu Hoa Kỳ lên tiếng cho Ls. Lê Quốc Quân trước ngày xử

Ngày 25 Tháng Chín, 2013


Chủ Tịch Trương Tấn Sang
c/o Đại Sứ Quán Việt Nam
1233 20th Street NW, Suite 400
Washington, DC 20036

Thưa ông Chủ Tịch:

Chúng tôi viết thư này để bày tỏ mối quan ngại sâu sắc về việc giam cầm luật sư và nhà tranh đấu nhân quyền Lê Quốc Quân.

Chúng tôi được biết là ông Quân bị bắt giữ vào tháng 12/2012 và bị buộc tội trốn thuế. Tội danh này có vẻ như có động lực chính trị và chứng cớ buộc tội ông Quân dường như được dàn dựng.

Theo tường thuật của báo giới thì ông Quân dự tính được đem ra xét xử vào đầu tháng Bảy. Tuy nhiên trước ngày xử thì Tòa Án Nhân Dân Hà Nội thông báo là vị chánh án ngã bệnh. Vì thế mà ông Quân vẫn chưa được xét xử cho tới nay. Chúng tôi cũng được biết là ông Quân không được phép gặp gia đình trong suốt thời gian giam giữ.

Ông Quân là nghiên cứu sinh của Reagan-Fascell Democracy Fellowship thuộc National Endowment for Democracy, một chương trình tài trợ bởi Quốc Hội Hoa Kỳ. Qua những việc làm của ông tại Việt Nam và qua chương trình nghiên cứu nói trên, ông Quân biểu hiện cho tầm quan trọng của việc bảo vệ và đẩy mạnh nhân quyền - điều mà chính ông đã nhấn mạnh trong lời tuyên bố chung với Tổng Thống Obama trong chuyến viếng thăm Washington vừa rồi.

Chúng tôi đồng thời cũng lo âu là trường hợp của ông Quân không phải là một thí dụ riêng biệt cho việc đàn áp với động cơ chính trị đối với các nhà tranh đấu nhân quyền tại Việt Nam. Trong tinh thần trao đổi cởi mở và thẳng thắn qua lời kêu gọi của ông trong lời tuyên bố chung với Tổng Thống Obama, chúng tôi kêu gọi ông hãy thả ông Quân và tất cả các tù nhân chính trị khác và ngưng việc bắt giữ và giam cầm người dân chỉ vì các hoạt động và bày tỏ ý kiến ôn hòa.

Trân trọng,